Năng lượng phát triển

Hợp tác phát triển năng lượng bền vững ở tiểu vùng sông Mekong

Thứ ba, 16/3/2021 | 14:19 GMT+7
Tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) vừa tổ chức Diễn đàn nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản thường niên với chủ đề “Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản nhằm phát triển năng lượng bền vững ở tiểu vùng sông Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion-GMS) giai đoạn hậu COVID-19”.

Phát biểu tại diễn đàn, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM đánh giá, kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ khá nhanh. Theo đó, nhu cầu sử dụng năng lượng rất lớn và có xu hướng liên tục tăng nhanh. Thực trạng này đặt ra thách thức trong bối cảnh nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiêt. Để vừa đáp ứng nhu cầu năng lượng vừa đảm bảo phát triển bền vững, Việt Nam đang nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng khác nhau, chứ không chỉ dựa vào các nguồn hóa thạch hay nguồn lợi thủy điện.

“Việt Nam cũng cần nhìn nhận tầm quan trọng của việc phát triển năng lượng một cách bền vững ở khu vực GMS và đã thường xuyên, chủ động trao đổi với các quốc gia thành viên. Trong quá trình đó, chúng tôi đánh giá cao sự tham gia hỗ trợ tích cực của các đối tác ở cả trong và ngoài khu vực GMS”, bà Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh.

Trong những năm gần đây, hợp tác của các nước thuộc Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (gồm Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và 2 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc) đã gia tăng đáng kể. Khu vực này được đánh giá có tiềm năng tăng trưởng lớn trong ASEAN. Cùng với quá trình hội nhập sâu rộng của ASEAN và ASEAN +, các nước ở khu vực GMS cũng đã có nhiều sáng kiến và nỗ lực hợp tác trên nhiều lĩnh vực, từ thương mại, đầu tư đến phát triển kết cấu hạ tầng, năng lượng, viễn thông, phát triển nguồn nhân lực và môi trường… Trong đó, năng lượng là một lĩnh vực quan trọng, gắn kết mật thiết với quá trình hợp tác và phát triển của các ngành, lĩnh vực khác.

Dù đều được dự báo sẽ tăng nhu cầu năng lượng trong thập niên tới, các nước thành viên GMS sẽ khó có thể phát triển bền vững và hiệu quả nếu chỉ xây dựng chính sách năng lượng một cách độc lập, không hài hòa với nhau. Chính ở đây, khu vực GMS vẫn cần gia tăng hợp tác nhằm hướng tới một chính sách năng lượng bền vững và hài hòa ở cấp vùng.

 

Về phía Nhật Bản, GS. Fukunari Kimura, khoa Kinh tế, Đại học Keio; Kinh tế trưởng, Viện Nghiên cứu kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA) cho biết: Tiểu vùng sông Mekong (MSR) được đánh giá là tiểu vùng thành công nhất với tốc độ tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo trong ba thập kỷ qua. Tuy vậy, khoảng cách phát triển trong khu vực vẫn còn rất rộng. Cần theo đuổi một phương án tăng trưởng bao trùm và bền vững hơn. Tính bền vững chưa được lưu tâm đúng mức thể hiện ở chỗ, do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên giá năng lượng thấp làm chậm quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp. Ngược lại, quá trình này trên thế giới lại diễn ra rất nhanh. Các vấn đề về phát triển bền vững khác như quản lý nguồn nước và môi trường nói chung cũng trở thành những vấn đề cấp bách trong tiểu vùng.

Theo ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tăng cường sản xuất điện vẫn là yếu tố cần thiết đối với tăng trưởng kinh tế. Nhưng hợp tác và điều phối chính sách năng lượng cũng không kém phần quan trọng. Vì vậy, cần đạt được sự nhất trí về tầm quan trọng của an ninh năng lượng đối với GMS và từng quốc gia thành viên. Kết nối cơ sở hạ tầng đồng thời chú trọng giảm tác động tiêu cực đến môi trường. Ví dụ đẩy mạnh nhà máy thủy điện và đa dạng sinh học dọc theo sông Mekong. Ông khuyến nghị việc đảm bảo an ninh năng lượng vẫn rất quan trọng nhưng cần đảm bảo cơ cấu năng lượng cân bằng hơn (thủy điện, nhiệt điện, năng lượng tái tạo). Nâng cao năng lực đánh giá tác động môi trường của các dự án năng lượng gần/dọc sông Mekong.

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho rằng, riêng trong lĩnh vực năng lượng, Nhật Bản có nhiều dư địa để gia tăng hợp tác với các nước GMS. Bên cạnh việc tham gia các dự án năng lượng phù hợp, Nhật Bản còn có nhiều kinh nghiệm trong việc theo dõi đánh giá tác động cũng như việc xây dựng các kế hoạch, biện pháp xử lý rủi ro liên quan đến những dự án này. Chẳng hạn kinh nghiệm xử lý hậu quả và phục hồi sau khủng hoảng Fukushima xảy ra đúng 10 năm trước đây vẫn đáng lưu tâm với nhiều nước GMS. Với việc doanh nghiệp Nhật Bản đang hiện diện nhiều hơn tại các nước GMS, một chính sách năng lượng bền vững của khu vực này cũng mang lại nhiều ý nghĩa cho Nhật Bản.

Diễn đàn là cơ hội để cùng nhìn lại bối cảnh tác động tới hợp tác phát triển năng lượng tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS); nhìn nhận lại một số vấn đề gây ảnh hưởng tới việc xây dựng chính sách năng lượng bền vững trong tiểu vùng. Từ đó, khuyến nghị một số chính sách để thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam – Nhật Bản và gia tăng đóng góp vào phát triển năng lượng bền vững ở tiểu vùng.

Tiến Đạt