Nông nghiệp sạch

Tăng cường công tác quản lý mã số vùng trồng nâng cao giá trị nông sản

Thứ ba, 29/3/2022 | 15:48 GMT+7
Ngày 28/3, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) ban hành Chỉ thị 1838/CT-BNN-BVTV về tăng cường công tác quản lý mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu.

Chỉ thị nhấn mạnh nhiệm vụ thiết lập, quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu đi vào thực chất và hiệu quả hơn; đồng thời nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan, góp phần xây dựng nền nông nghiệp chuyên nghiệp và bền vững.

Theo chỉ thị, hiện nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Tỷ lệ diện tích trồng trọt được cấp mã số vùng trồng chưa cao, mới tập trung ở một số cây ăn quả chủ lực. Công tác giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói sau khi được cấp mã số tại một số nơi còn hạn chế, chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của thị trường xuất khẩu. Đặc biệt, tình trạng "mạo danh" mã số và vi phạm quy định về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm hay phòng chống Covid- 19 của vùng trồng và cơ sở đóng gói vẫn tồn tại.

Vì vậy, việc thiết lập và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nông sản là yêu cầu bắt buộc của các thị trường và thông lệ quốc tế nhằm đảm bảo tuân thủ quy định của nước xuất khẩu về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Tăng cường công tác quản lý mã số vùng trồng góp phần xây dựng nền nông nghiệp chuyên nghiệp và bền vững

Theo đó, là đơn vị quản lý, tham mưu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) được giao 6 nhiệm vụ. Bao gồm: hoàn thiện xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia, cập nhật tài liệu hướng dẫn về thiết lập và quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói để tập huấn cho các tổ chức, cá nhân liên quan; chủ động đàm phán với cơ quan kỹ thuật của nước xuất khẩu để mở cửa thị trường, tăng số lượng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói được phép xuất khẩu; giải quyết các rào cản kỹ thuật để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.

Chủ trì, phối hợp địa phương tăng cường công tác quản lý, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói đảm bảo đáp ứng các quy định kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm; xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn kỹ thuật cho từng đối tượng áp dụng (người nông dân, doanh nghiệp, cán bộ kỹ thuật địa phương...) về các quy định kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm theo chuỗi, từ sản xuất đến xuất khẩu trên từng loại sản phẩm trồng trọt; đảm bảo nguyên tắc dễ hiểu, dễ tiếp cận và dễ áp dụng.

Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin để quản lý cơ sở dữ liệu về vùng trồng, cơ sở đóng gói đảm bảo sử dụng dữ liệu hiệu quả và truy xuất nguồn gốc nhanh chóng, minh bạch. Phối hợp và hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển vùng trồng, cơ sở đóng gói trên cơ sở thực tế, đặc thù và nhu cầu của từng địa phương.

Ngoài ra, chỉ thị cũng nêu rõ, các cơ quan: Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Văn phòng Điều phối chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cần nghiên cứu, đề xuất đưa các chỉ tiêu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói vào Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP).

Trung tâm Khuyến nông quốc gia có trách nhiệm xây dựng các chương trình tập huấn, truyền thông về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói trong kế hoạch hoạt động hàng năm của hệ thống khuyến nông.

Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản thực hiện công tác tổ chức thực hiện các chương trình giám sát dư lượng thuốc BVTV tại các vùng trồng được cấp mã số.

Song song với phân nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc, Bộ NN&PTNT cũng đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, bổ sung các chỉ tiêu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói vào nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch hành động phát triển kinh tế xã hội tại địa phương; đồng thời xây dựng, ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển vùng trồng, cơ sở đóng gói theo quy mô sản xuất hàng hóa đáp ứng yêu cầu của nước xuất khẩu.

Đề nghị các hiệp hội ngành hàng tăng cường tuyên truyền cho hội viên về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, đặc biệt là quy định kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm của nước xuất khẩu; phối hợp Cục BVTV và cơ quan địa phương trong việc phát triển mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu.

Về việc tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý vùng trồng, cơ sở đóng gói, Bộ NN&PTNT đề nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở NN&PTNT phối hợp trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia. Bên cạnh đó, Sở và Phòng NN&PTNT cấp huyện cần tăng cường thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói trên địa bàn; bố trí cán bộ đầu mối thông tin.

Ngọc Huyền