Ngành than ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào sản xuất

Thứ tư, 8/4/2020 | 14:11 GMT+7
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) luôn chú trọng đầu tư, đẩy mạnh áp dụng nhiều công nghệ, thiết bị mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, cải tiến điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn cho công nhân lao động.

Công ty CP Than Cao Sơn là đơn vị có sản lượng khai thác than nguyên khai lớn nhất TKV, mỗi năm khai thác từ 3,5 đến 3,7 triệu tấn than lộ thiên. Để đạt sản lượng nêu trên, công ty cần khoan nổ mìn bốc xúc mỗi năm khoảng 37 triệu m3 đất đá. Trước đây, công ty có 16 máy khoan CBW-250 do Liên Xô (trước đây) sản xuất, hoạt động từ năm 1980. Tuy nhiên, hiện tại phần lớn máy khoan đã xuống cấp, ảnh hưởng tiến độ khoan nổ mìn phục vụ sản xuất.

Giữa năm 2018, công ty đầu tư hơn 30 tỷ đồng nhập khẩu một máy khoan xoay cầu thủy lực CAT MD6250 (công nghệ Mỹ) phục vụ khoan nổ mìn khai thác than lộ thiên. Đây là thiết bị có thể kết nối dữ liệu, cập nhật phần mềm theo dõi thông số giờ khoan, nhiên liệu, di chuyển linh động các diện sản xuất dưới moong sâu, khoan sâu nhất đạt 54 m (máy khoan CBW-250 sâu nhất 32 m). Tháng 2 vừa qua, Cao Sơn tiếp tục đầu tư máy khoan xoay cầu thủy lực CAT MD6250. Lãnh đạo công ty cho biết, thời gian tới, trên cơ sở thực tế, công ty sẽ nghiên cứu, đầu tư thêm các loại máy xúc hiện đại, thay thế dần các loại máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu.

Các đơn vị khai thác than lộ thiên của TKV đều cơ bản thực hiện cơ giới hóa (CGH) ở tất cả các khâu sản xuất. Đồng thời, áp dụng đồng bộ thiết bị CGH công suất lớn để giảm chi phí, như máy khoan đường kính lớn, máy xúc thủy lực gầu ngược dung tích 12 m3; hệ thống vận tải liên hợp ô-tô - băng tải; sử dụng máy cày xới thay thế một phần công nghệ khoan nổ mìn tại các khu vực phù hợp.

Lò chợ cơ giới hóa đồng bộ được hoàn thành lắp đặt tại Công ty CP Than Núi Béo (TKV)

Thời gian qua, TKV đã đẩy mạnh đầu tư, đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào hoạt động khai thác, chế biến than. Đến nay, Tập đoàn đã và đang làm chủ nhiều công nghệ tiên tiến trên thế giới; chủ động chế tạo, nội địa hóa nhiều máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ sản xuất. Việc đẩy mạnh CGH trong khai thác hầm lò cũng được TKV chú trọng, coi là nhiệm vụ then chốt để nâng cao năng suất, sản lượng và bảo đảm an toàn lao động. Nhiều công nghệ tiêu biểu đã được áp dụng tại các đơn vị hầm lò như lò chợ CGH đồng bộ công suất 1,2 triệu tấn/năm; CGH kết hợp giá khung, giá xích; giàn chống mềm ZRY tại các khu vực vỉa dày trung bình, dốc đứng… Các công nghệ tự động hóa, tin học hóa trong vận hành, điều khiển giám sát cũng được áp dụng triệt để, nhằm hiện đại hóa quá trình sản xuất, giảm lao động thủ công trực tiếp, tiết giảm chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Năm 2019, TKV đạt sản lượng khai thác 40,5 triệu tấn than và tiêu thụ 44 triệu tấn. Đây là sản lượng cao nhất TKV đạt được kể từ năm 2014 đến nay. Cùng với tăng trưởng sản xuất, kinh doanh, năm 2019 ghi nhận những kết quả rõ nét về tái cơ cấu của TKV với những giải pháp cốt lõi được triển khai. Đó là cơ giới hóa khai thác mỏ; tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lao động, hướng đến mô hình “Mỏ xanh, sạch, hiện đại, mỏ ít người” và “Cơ giới hóa, tự động hóa” trên tất cả các khối ngành sản xuất. Năm 2020, TKV đặt mục tiêu sản xuất tương đương năm trước; tiêu thụ 49 triệu tấn; doanh thu 138 nghìn tỷ đồng; lợi nhuận khoảng 3.500 tỷ đồng.

TKV đã xác định chủ trương đổi mới công nghệ trong Chiến lược phát triển bền vững của TKV tầm nhìn đến năm 2030 là không ngừng đổi mới, hiện đại hóa công nghệ theo hướng nâng cao trình độ CGH, tự động hóa, tin học hóa và sản xuất sạch hơn ở các mỏ, xí nghiệp, nhà máy đang hoạt động; ứng dụng công nghệ hiện đại ngay từ đầu đối với các dự án đầu tư mới. Nhờ thực hiện đổi mới công nghệ, TKV không chỉ cải thiện điều kiện làm việc, giảm nhân lực (giảm 97 nghìn người từ năm 2015 đến nay) mà còn nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, làm lợi cho TKV khoảng 450 tỷ đồng/năm.

Thời gian tới, TKV sẽ ứng dụng rộng rãi CGH đồng bộ và bán CGH vào các công đoạn sản xuất chính trong khai thác, chế biến. Đồng thời, tiếp tục triển khai các hệ thống tự động hóa trong điều khiển, giám sát cung cấp điện, vận tải băng tải, thông gió, bơm nước và quan trắc môi trường; phấn đấu đến năm 2025, một số mỏ đạt mức tự động hóa cao, có thể điều khiển và giám sát từ xa tại phòng tập trung. Tập đoàn cũng sẽ nghiên cứu xây dựng một số trạm vận hành không người trực; thực hiện mô hình tự động hóa gắn với sản xuất thông minh ở một số công đoạn sản xuất.

Anh Thư (t/h)