Thẩm định Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long

Thứ hai, 3/10/2022 | 14:31 GMT+7
Mới đây, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Lê Công Thành đã chủ trì cuộc họp trực tuyến Hội đồng cấp Bộ thẩm định Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Báo cáo tại cuộc họp, ông Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, đơn vị chủ trì lập quy hoạch cho biết, lưu vực sông Cửu Long có tổng diện tích tự nhiên khoảng 39.945km2, bao gồm 13 tỉnh, thành phố: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ.

Lưu vực có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, như tiềm năng nông nghiệp lớn, tổng lượng tài nguyên nước dồi dào. Tuy nhiên, hiện nay, lưu vực đã và đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, nhất là các tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH): nước biển dâng, hạn hán, gia tăng xâm nhập mặn, xói lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất, các tác động do khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở thượng lưu Mê Kông…

Do đó, việc lập và phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là rất cần thiết để cụ thể hóa Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 hướng đến mục tiêu bảo đảm an ninh tài nguyên nước, thích ứng với BĐKH trên lưu vực sông, điều hòa, phân bổ nguồn nước một cách phù hợp, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước, nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả, tác hại do nước gây ra; phục hồi các nguồn nước, cảnh quan môi trường các dòng sông bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng.

Khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước

Trong đó, mục tiêu đến năm 2030 là điều hòa, phân bổ nguồn nước bảo đảm hài hòa lợi ích cho các địa phương, các đối tượng khai thác, sử dụng nước, đáp ứng nhu cầu nước cho sinh hoạt và các ngành sản xuất công nghiệp; bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ chức năng nguồn nước, nguồn sinh thủy, sự lưu thông dòng chảy, các hồ, ao có chức năng điều hòa, có giá trị đa dạng sinh học; bảo đảm lưu thông dòng chảy, phòng, chống sạt lở bờ, bãi sông, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, phòng, chống sụt, lún do khai thác nước dưới đất; phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng, ưu tiên đối với các khu vực trọng điểm phát triểm kinh tế - xã hội; quản lý, vận hành hệ thống thông tin, dữ liệu giám sát thực hiện quy hoạch, một số chỉ số an ninh tài nguyên nước của lưu vực sông phù hợp.

Phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu cơ bản như: 100% các nguồn nước sông liên tỉnh được công bố khả năng tiếp nhận nước thải; 100% công trình khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước được giám sát vận hành và kết nối hệ thống theo quy định; 100% hồ, ao có chức năng điều hòa, có giá trị cao về đa dạng sinh học không được san lấp được công bố; 70% nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ được cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước; 50% tổng lượng nước thải tại các đô thị loại II và 20% từ các đô thị từ loại V trở lên được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra môi trường.

Tầm nhìn đến năm 2050 là duy trì, phát triển tài nguyên nước, điều hòa, phân bổ nguồn nước bảo đảm an ninh tài nguyên nước, thích ứng với biến đổi khí hậu và phù hợp với các điều ước quốc tế, hợp tác song phương liên quan đến tài nguyên nước mà Việt Nam đã tham gia; tăng cường bảo vệ tài nguyên nước, bảo đảm số lượng, chất lượng nước đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giảm thiểu tối đa tác hại do nước gây ra. Hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước được thực hiện theo phương thức trực tuyến trên cơ sở quản trị thông minh; bổ sung và nâng cao một số chỉ tiêu của quy hoạch, quản lý tổng hợp tài nguyên nước phù hợp với giai đoạn phát triển của quốc gia, ngang bằng với các quốc gia phát triển trong khu vực; bảo đảm an ninh tài nguyên nước, nâng cao giá trị của nước phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới.

Tại cuộc họp, Viện trưởng Viện Khoa học tài nguyên nước Dương Hồng Sơn đề nghị, đối với báo cáo tổng hợp của quy hoạch cần rà soát và phân tích đầy đủ hiện trạng và vấn đề của từng nội dung quy hoạch để có cơ sở đưa ra các mục tiêu quy hoạch phù hợp; rà soát lại các kết quả tính toán về lượng nước mặt nội sinh, cần làm rõ phương pháp tính toán, ý nghĩa và các thành phần tạo nên nước mặt nội sinh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; bổ sung các bản đồ về hiện trạng khai thác sử dụng nước trên vùng sông Cửu Long. Về phân vùng chức năng nguồn nước, cần bổ sung thêm phân tích về hiện trạng khai thác sử dụng nước, hiện trạng xả thải, cũng như các quy hoạch phát triển về khai thác sử dụng nước và xả thải trên các đoạn sông để làm căn cứ phân vùng chức năng nguồn nước cho các đoạn sông...

Đại diện Tổng cục Khí tượng thủy văn đề nghị xem xét bổ sung thông tin về hiện trạng, hệ thống xử lý nước thải của các cơ sở xả thải, việc chấp hành của các cơ sở xả thải, hiệu quả trong xử lý nước thải trên lưu vực sông Cửu Long, từ đó có thể đánh giá và đưa ra những dự báo về chất lượng nước tại những khu vực xả thải; bổ sung thông tin số lượng trạm quan trắc thủy văn và trạm đo mặn trên lưu vực sông Cửu Long; xem xét bổ sung nội dung về xây dựng và duy trì mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn trong lưu vực sông Cửu Long…

Kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành ghi nhận và đánh giá cao những ý kiến phát biểu của các thành viên Hội đồng. Qua đó, Thứ trưởng đề nghị, Cục Quản lý tài nguyên nước, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Văn phòng thường trực Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam cùng với các đơn vị tài nguyên nước của Bộ nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ các ý kiến của các thành viên hội đồng, tiếp tục hoàn thiện bản quy hoạch trình Bộ để gửi xin ý kiến các Bộ, ngành và các địa phương liên quan.

Thứ trưởng yêu cầu, Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 cần bám sát các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị và Chính phủ; cũng như các định hướng trong phương hướng khai thác, bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông trên lãnh thổ vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt làm căn cứ chính trị, kim chỉ nam xuyên suốt quá trình xây dựng quy hoạch.

Lâm Bảo