Doanh nhân - Thị trường

Cơ hội tăng trưởng của ngành thép năm 2017: Nhiều triển vọng

Thứ tư, 5/4/2017 | 16:31 GMT+7
Thị trường bất động sản hồi phục, sự gia tăng các dự án xây dựng hạ tầng và nhiều chính sách hỗ trợ là những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng của ngành thép. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, việc cân đối cung - cầu, bảo đảm nguồn cung các sản phẩm đang thiếu hụt trên thị trường trong nước cũng như thế giới mới là giải pháp phát triển bền vững của ngành này

Doanh nghiệp Thép cần đa dạng hóa sản phẩm

Tiếp tục tăng trưởng

Tại Hội thảo “Ngành thép và Thị trường chứng khoán năm 2017”, ông Nguyễn Văn Sưa - Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) - cho biết, năm 2016, ngành thép trong nước đón nhận nhiều tin vui: Tổng các loại sản phẩm thép sản xuất đạt 17,5 triệu tấn, tăng 16,8% so với năm 2015, trong đó, tổng sản lượng tiêu thụ thép các loại trong nước đạt hơn 15,3 triệu tấn, tăng 23,7% so với năm 2015. Đây cũng là năm các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ngành thép có mức lãi suất đột biến như: Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát, Tập đoàn Hoa Sen có lãi ròng tăng trưởng gấp đôi năm 2015 và lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay; Công ty Cổ phần Đầu tư thương mại SMC, Công ty Cổ phần Tập đoàn Thép Tiến Lên, Công ty Cổ phần Thép Việt Ý từ lỗ năm trước đó đến lãi đậm năm 2016 và xóa lỗ lũy kế; Công ty Cổ phần Thép Pomina cho đến cuối năm 2015 vẫn còn lỗ lũy kế hơn 200 tỷ đồng, đã bù hết lỗ và còn tích lũy 89,4 tỷ đồng lợi nhuận.

VSA dự báo, trong 5 năm tới, ngành thép sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức xấp xỉ 12- 15%. Năm 2017, dự kiến sản lượng gang tăng 80%, đạt 4,5 triệu tấn; sản lượng phôi thép tăng 47.2%, lên mức 11,5 triệu tấn; sản lượng thép thành phẩm tăng 12% lên gần 20 triệu tấn, sản lượng thép xây dựng tăng 11%, thép lá cuộn cán nguội tăng 13%, thép ống hàn tăng 15% và tôn mạ và sơn phủ màu tăng 12%.

Lấp khoảng trống cung - cầu

Tuy nhiên, phần lớn các chuyên gia kinh tế và VSA đều cho rằng, ngành thép vẫn chưa vận hành tối đa công suất. Hiện nay, sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng, thép cán nguội, ống thép, tôn mạ kim loại và sơn phủ màu, nhưng Việt Nam vẫn đang nhập khẩu rất nhiều thép, chủ yếu là những sản phẩm trong nước chưa cung ứng được như thép cuộn cán nóng (HRC), thép chế tạo…

Ông Khổng Phan Đức - Tổng giám đốc Công ty CP Chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam (VietinbankSC) - nhận định, ngành thép Việt Nam tuy có quy mô không lớn, nhưng vẫn có lợi thế cạnh tranh riêng, đặc biệt là chi phí sản xuất. Năm 2016, ngành thép đã xuất khẩu 3,6 triệu tấn sản phẩm cuối cùng - đó là số liệu rất thuyết phục cho một thị trường nhỏ như Việt Nam. Tổng giám đốc VietinbankSC phân tích thêm, tại Việt Nam, dư địa phát triển ngành thép vẫn còn rất lớn do nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng ở các thành phố và khu vực ngoại ô. Lượng thép tiêu thụ/đầu người năm 2016 mới chỉ đạt 240kg, thấp hơn nhiều so với Thái Lan (262,7kg), Malaysia (336,1kg), Đài Loan (837,1) hay Nhật Bản (531,7kg). Vấn đề của các doanh nghiệp trong ngành là nên mở rộng, khai thác điểm khuyết trong chuỗi giá trị để tạo giá trị gia tăng như phân khúc HRC. Nếu các doanh nghiệp làm ống thép có thể tiến tới sản xuất được HRC, tiềm năng tăng trưởng sẽ rất rộng mở.

Đồng quan điểm, ông Đặng Trần Hải Đăng - Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu VietinBankSC - cho rằng, cơ hội tăng trưởng của các doanh nghiệp thép Việt còn rất tốt nếu tìm được hướng đi phù hợp. Sản xuất phôi thép, HRC chính là điểm khuyết trong chuỗi giá trị mà Việt Nam chưa sản xuất được. Cùng với đó, năng lực sản xuất thép cơ khí chế tạo gần như chưa có. Đó là nguyên do mà năm 2016, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 17,5 triệu tấn thép thành phẩm, trong đó nhiều nhất là thép hợp kim (46%) và thép tấm lá đen (32%).

Lời giải cho bài toán phát triển ngành thép là các doanh nghiệp cần khai thác những khâu còn khuyết trong chuỗi giá trị ngành, đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu tốt và biên lợi nhuận cao như ống thép, tôn mạ. Song song với đó là tối ưu hóa quy mô sản xuất với quy trình khép kín, giúp nâng cao hiệu quả, tiết giảm tối đa chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá, kể cả so với sản phẩm nhập khẩu.

Nguồn: Báo Công thương