Không thể có một mức giá nước thống nhất trên toàn quốc

Thứ sáu, 29/11/2019 | 14:29 GMT+7
Ông Trần Quang Hưng, nguyên Phó Chủ tịch - Tổng thư ký hội Cấp thoát nước Việt Nam cho rằng, hiện nay, 63 tỉnh thành khác nhau, có trăm cách áp dụng khác nhau, hơn 100 công ty cấp nước có mức giá nhau, đó chính là đặc thù của ngành nước, bởi giá nước không chỉ là vấn đề lý thuyết. Do đó không thể có 1 mức giá nước thống nhất trên toàn quốc.

Giải thích cụ thể về vấn đề trên, ông Nguyễn Tiến Thỏa, Chủ tịch Hội Hội thẩm định giá Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính khẳng định, Bộ Tài chính quy định khung giá nước sạch sinh hoạt, UBND cấp tỉnh quyết định biểu giá cụ thể. Công ty nước sạch quyết định giá bán nhưng phải nằm trong biểu giá của tỉnh. Trên thực tế, hầu hết địa phương tính giá bù đắp được chi phí sản xuất và có lợi nhuận, tối thiểu 5%. Nhưng không phải 100% các địa phương giá nước đều đảm bảo, còn có các địa phương có giá chưa bù đắp được chi phí sản xuất.

Theo ông Thỏa, có 3 lý do cơ bản để giá nước khác nhau. Thứ nhất đầu vào sản xuất ra nước sạch (nước ngầm hay nước mặt) kéo theo chi phí xử lý khác nhau. Thứ hai là điều kiện thực tế của cơ cấu nguồn vốn, nếu nhà đầu tư vay 80% tổng mức đầu tư thì giá thành sẽ khác vay 50%, trong khi pháp luật cho phép tính lãi vay vào giá thành. Thứ ba, chi phí khấu hao tài sản cũng là một cấu phần của giá thành.

Giá nước sạch ở 63 tỉnh thành phố khác nhau. (Ảnh minh họa)

Ông Nguyễn Trọng Dương, Viện phó Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường đánh giá, theo Thông tư 88 cho đến nay, chúng ta chưa vượt, đối với các đô thị, thành phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, TP. HCM… rõ ràng khung giá là khá rộng, từ 3.500 đồng cho đến 18.000 đồng.

"Chúng ta cho đến giờ phút này chưa vượt, nhưng làm sao để Nhà nước, doanh nghiệp tính đúng tính đủ giá nước, đảm bảo minh bạch là điều chúng ta mong muốn. Định mức sản xuất nước sạch, dự toán xây dựng cơ bản, quy định về cách tính giá nước là công cụ để xây dựng khung giá. Tuy nhiên, các quy định vẫn còn những thiếu sót", ông Dương nhấn mạnh. Đồng thời phân tích thêm, “Các chủ dự án được phép đưa chi phí nước thất thoát vào giá thành, nói chung chung là nước thất thoát thì chưa đủ… nước thất thoát gồm thất thoát vật lý và thương mại, vật lý thì hợp lý, không tránh khỏi, còn do thương mại không nên bắt khách hàng phải chịu, nên chia tách rõ ràng, số liệu cho thấy nước thất thoát thương mại chiếm đến khoảng 1/3 tổng lượng nước thất thoát”.

Theo ông Dương, giá thành phải phản ánh đúng chất lượng nước, do đó, cần quản lý, kiểm soát chất lượng tốt hơn, người dân sẵn sàng chi tiền để có được chất lượng phục vụ tốt.

Tuấn Kiệt