Ngày 17/6, trong chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng với 452/453 đại biểu Quốc hội có mặt tham gia biểu quyết tán thành, đạt tỷ lệ 99,8% tổng số đại biểu biểu quyết.
Theo Nghị quyết vừa được thông qua, Quốc hội quyết nghị: giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng, áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ quy định tại khoản 3 điều 9 Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản phẩm kim loại, sản phẩm khai khoáng (trừ than), sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ xăng).
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025 đến hết ngày 31/12/2026.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng
Trước đó, trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng giải trình làm rõ việc xác định phạm vi các nhóm hàng hóa, dịch vụ được miễn thuế VAT như dự thảo luật.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, có một số ý kiến đề nghị áp dụng giảm thuế VAT 2% cho tất cả các mặt hàng. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị thay vì giảm 2% cho nhiều đối tượng thì giảm từ 4 - 5% cho đúng đối tượng cần hỗ trợ.
Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết dự thảo Nghị quyết lần này đã mở rộng thêm đối tượng được giảm thuế so với quy định tại các Nghị quyết của Quốc hội trước đây và kéo dài thời gian giảm thuế đến hết năm 2026. Theo đó, kinh doanh vận chuyển, logistics, hàng hóa, dịch vụ công nghệ thông tin thuộc đối tượng được giảm thuế.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về thuế VAT, hoạt động dạy học, dạy nghề và dịch vụ y tế thuộc đối tượng không chịu thuế VAT nên cũng không cần phải giảm thuế.
Đối với dịch vụ như hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm thuộc đối tượng không chịu thuế VAT nên không cần phải giảm thuế VAT. Còn dịch vụ viễn thông, bất động sản là những ngành có tăng trưởng trong thời gian qua và cũng không thuộc đối tượng được giảm thuế VAT.
Theo phương án Chính phủ đề xuất ngày 16/4, dự kiến số giảm thu ngân sách Nhà nước trong 6 tháng cuối năm 2025 và cả năm 2026 tương đương khoảng 121.740 tỷ đồng, trong đó, 6 tháng cuối năm 2025 giảm khoảng 39.540 tỷ đồng, năm 2026 giảm khoảng 82.200 tỷ đồng.
Trường hợp thực hiện giảm thuế theo phương án giảm tất cả các mặt hàng chịu thuế suất thuế VAT 10% thì dự kiến số giảm thu ngân sách Nhà nước trong 6 tháng cuối năm 2025 và cả năm 2026 tương đương khoảng 167.000 tỷ đồng, trong đó, 6 tháng cuối năm 2025 giảm khoảng 54.000 tỷ đồng, năm 2026 giảm khoảng 113.000 tỷ đồng. Do đó, Chính phủ xin Quốc hội giữ như dự thảo Nghị quyết.
Việc giảm thuế giá trị gia tăng tác động làm giảm thu ngân sách Nhà nước nhưng cũng có tác động kích thích sản xuất, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước (bao gồm khả năng tăng thu từ các sắc thuế khác nhờ hiệu ứng lan tỏa của chính sách giảm thuế giá trị gia tăng).
Nhằm bù đắp số hụt thu do thực hiện chính sách, Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương thực hiện các giải pháp như sau:
Tập trung thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp, chính sách tài khóa theo các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, thúc đẩy các động lực tăng trưởng GDP năm 2025 đạt ít nhất 8% và phấn đấu hai con số trong điều kiện thuận lợi hơn, qua đó tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Quyết liệt trong công tác thu ngân sách Nhà nước, tăng cường quản lý, cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý thuế, nhất là trong những lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, thu từ đất, chuyển nhượng bất động sản, hoạt động thương mại điện tử, hoạt động kinh doanh trên nền tảng số; mở rộng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền trong các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ ăn uống, nhà hàng, khách sạn theo chuỗi, kinh doanh xăng dầu, vàng... Phấn đấu thu ngân sách Nhà nước năm 2025 cao hơn khoảng 10% so với ước thực hiện năm 2024.
Điều hành chi ngân sách Nhà nước chặt chẽ, tăng cường tiết kiệm chi; chủ động sử dụng dự phòng, dự trữ và các nguồn lực hợp pháp khác để chi phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và những nhiệm vụ cấp bách phát sinh theo quy định, đảm bảo cân đối ngân sách các cấp.