Kinh tế xanh

Thiết lập khung pháp lý cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng

Chủ nhật, 17/8/2025 | 10:00 GMT+7
Dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng thiết lập khung pháp lý cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng, quy định rõ nguyên tắc, điều kiện, đối tượng, quy trình định giá, cấp và giao dịch tín chỉ carbon.

Tại Hà Nội, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vừa tổ chức hội thảo tham vấn dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng.

Phát biểu tại hội thảo, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm chia sẻ, Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trong cam kết này, tài nguyên rừng và ngành nông nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng. Với diện tích rừng hiện nay trên 14,8 triệu ha, việc bảo vệ và phát triển rừng không chỉ là nhiệm vụ bảo tồn sinh thái mà còn là cơ sở để huy động nguồn lực tài chính từ các đối tác trong và ngoài nước.

Ông Trần Quang Bảo cho biết, hiện Việt Nam còn thiếu các quy định cụ thể về hấp thụ và lưu trữ carbon rừng, định giá tín chỉ carbon cũng như cơ chế giao dịch minh bạch, hiệu quả trên thị trường. Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương để xây dựng, hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng. Ban soạn thảo đã tổ chức nhiều hội thảo, lấy ý kiến rộng rãi từ các bên liên quan để đảm bảo nghị định này khi ban hành sẽ khả thi và phù hợp với thực tiễn.

Ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm chia sẻ thêm, hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang theo đuổi chiến lược phát triển bền vững thông qua việc áp dụng các tiêu chí ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị). Nhận thấy xu hướng này, dự thảo nghị định lần này đã đưa ra các quy định cụ thể, làm rõ vai trò cũng như cơ chế tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động cung cấp dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng. Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của doanh nghiệp trong việc đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính mà còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp được ghi nhận những đóng góp tích cực của mình trong các cam kết khí hậu.

Nước ta sở hữu tiềm năng lớn về tín chỉ carbon rừng

Dự thảo Nghị định thiết lập khung pháp lý cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng, quy định rõ nguyên tắc, điều kiện, đối tượng, quy trình định giá, cấp và giao dịch tín chỉ carbon. Bên cung ứng gồm chủ rừng, UBND xã và tổ chức được giao quản lý rừng; bên sử dụng là các cơ sở phát thải, tổ chức/cá nhân trong và ngoài nước.

Dự án phải đạt tiêu chuẩn trong nước hoặc quốc tế và hoàn thành nghĩa vụ Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) trước khi chuyển nhượng tín chỉ. Nguồn thu được phân bổ cho chủ rừng và Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng để quản lý, bảo vệ và nâng cao sinh kế cộng đồng. Nghị định cũng quy định chế độ tài chính, giám sát và trách nhiệm của các bên để bảo đảm minh bạch, hài hòa lợi ích.

Bản dự thảo mới cập nhật bổ sung hàng loạt quy định chi tiết về định giá, hợp tác, liên kết triển khai dự án và cơ chế tài chính so với bản lấy ý kiến trước đó.

Điểm thay đổi nổi bật là quy trình định giá được chuẩn hóa lần đầu tiên. Nếu trước đây nghị định chỉ dừng ở việc Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành phương pháp định giá và UBND cấp tỉnh xây dựng bảng giá thì bản mới bổ sung một lộ trình, từ đề xuất giá khởi điểm, kiểm tra hồ sơ, phê duyệt, công khai tối thiểu 30 ngày cho tới đàm phán, ký hợp đồng hoặc niêm yết trên sàn giao dịch. Thời hạn xử lý từng khâu được ấn định rõ, từ 5 đến 45 ngày làm việc. Việc công khai dự án cũng phải nêu rõ vị trí, diện tích, giá khởi điểm, điều kiện tham gia và thời gian đàm phán.

Từ thay đổi này, nội dung về hợp tác, liên kết cũng được tách bạch thành 2 điều riêng, áp dụng riêng cho rừng không thuộc sở hữu toàn dân và rừng thuộc sở hữu toàn dân. Với rừng ngoài sở hữu toàn dân, chủ rừng có thể ký hợp đồng hợp tác với tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài (trường hợp này phải làm thủ tục đầu tư), thành lập ban điều phối và thực hiện theo mẫu hợp đồng kèm nghị định.

Trong khi đó, với rừng thuộc sở hữu toàn dân, chủ rừng là tổ chức phải lập đề án hợp tác theo mẫu, gửi cơ quan thẩm định và chờ phê duyệt trong thời hạn tối đa 30 ngày. Nếu sau 24 tháng ký hợp đồng mà dự án không triển khai, hợp đồng có thể bị chấm dứt, trừ các trường hợp bất khả kháng.

Cơ chế tài chính trong bản dự thảo mới nhất cũng được mở rộng, với quy định chi tiết hơn cho việc trích tối đa 5% tổng số tiền thực thu tại Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng và quỹ tỉnh để chi cho các hoạt động mới như xây dựng phương pháp định giá, mua thiết bị, vật tư bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng.

Chủ rừng là tổ chức khác ngoài doanh nghiệp được phép chi cho các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư kết hợp, giao đất, giao rừng, cải thiện sinh kế, tiêu thụ sản phẩm, bảo tồn đa dạng sinh học, tham quan học tập kinh nghiệm…

Những bổ sung này được đánh giá sẽ giúp Nghị định khi ban hành có thể vận hành ngay trên thực tế, đồng thời mở rộng kênh huy động tài chính từ thị trường carbon cho bảo vệ và phát triển rừng.

Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường gấp rút hoàn thiện dự thảo để kịp trình Chính phủ vào tháng 9/2025 sau khi hoàn tất vòng tham vấn cuối cùng. Trong quá trình xây dựng, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đã tổ chức nhiều hội thảo kỹ thuật, lấy ý kiến rộng rãi từ các địa phương, Bộ ngành, tổ chức quốc tế và cộng đồng khoa học để bảo đảm quy định khả thi, minh bạch và đáp ứng yêu cầu thị trường.

Ông Trần Quang Bảo nhấn mạnh: Chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự đóng góp ý kiến của các bên liên quan để sớm đưa nghị định vào thực tiễn, tạo ra hệ thống giá trị có thể chuyển đổi, phục vụ cả mục tiêu môi trường và phát triển kinh tế.

An Vinh (t/h)