Hoàn thiện hành lang pháp lý và nền tảng dữ liệu
Năm 2025 ghi nhận nỗ lực lớn trong hoàn thiện thể chế về tài nguyên, môi trường và khí hậu. Chỉ trong một năm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình và ban hành 17 nghị định, 2 nghị quyết của Chính phủ, 2 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cùng 66 thông tư, bao phủ các lĩnh vực then chốt từ đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước, môi trường biển đến giảm phát thải khí nhà kính; cho thấy yêu cầu cấp bách của thực tiễn và quyết tâm xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển bền vững.
Một dấu ấn mang tính nền tảng là chuyển đổi số trong quản lý đất đai. Chiến dịch “90 ngày làm giàu, làm sạch cơ sở dữ liệu đất đai” đã giúp cả nước đồng bộ 41,19 triệu/53,72 triệu thửa đất, trong đó 20,55 triệu thửa đạt chuẩn, 32/34 tỉnh, thành phố đã tạo lập mã định danh thửa đất. Đây là lớp dữ liệu gốc giúp minh bạch hóa thị trường đất đai, giảm tranh chấp, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên.
Ở lĩnh vực bảo vệ môi trường, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đạt 97,28% tại đô thị và 83% tại nông thôn; khoảng 95% khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn; 122 cơ sở xử lý chất thải nguy hại hoạt động trên cả nước, với tỷ lệ thu gom, xử lý đạt khoảng 98%.

Ô nhiễm không khí do bụi mịn tại Hà Nội nhiều thời điểm vượt ngưỡng an toàn
Năm 2025, Việt Nam tăng tốc triển khai các cam kết về biến đổi khí hậu, như Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu, việc xây dựng Thông báo quốc gia lần thứ tư và Báo cáo minh bạch hai năm một lần (BTR1) gửi Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu đã đặt nền móng kỹ thuật và pháp lý cho lộ trình hướng tới Net Zero vào năm 2050…
Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa đủ để làm giảm đi tác động khốc liệt của biến đổi khí hậu và vấn đề tồn tại nhiều năm qua. Chỉ riêng trong năm 2025, thiên tai đã làm 420 người chết và mất tích, gây thiệt hại kinh tế ước khoảng 97.115 tỷ đồng; trên Biển Đông xuất hiện 21 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, mức cao hiếm thấy trong nhiều năm. Bên cạnh đó, ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn chưa được cải thiện bền vững.
Theo một số chuyên gia, ô nhiễm đô thị phản ánh sự bị động và lúng túng trong quản lý, cứ mỗi đợt bụi mịn ở thành phố, phản ứng phổ biến sẽ là khuyến cáo người dân tự phòng vệ hơn là những biện pháp quản trị nguồn thải đủ mạnh. Cần có kịch bản hành động rõ ràng, mức nào thì “siết” bụi công trình, hạn chế phương tiện giao thông hay mức nào thì kiểm tra đột xuất cơ sở phát thải, phối hợp các địa phương để xử lý nguồn ô nhiễm. Ngoài ra, ô nhiễm nước tại nhiều lưu vực sông liên tỉnh vẫn còn diễn biến phức tạp; trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt, tỷ lệ chôn lấp vẫn còn cao, chiếm khoảng 59%, phân loại rác tại nguồn còn triển khai chậm, cho thấy kinh tế tuần hoàn chưa phổ biến.
Đối với mục tiêu Net Zero, thị trường carbon vẫn chưa hình thành rõ nét. Nhiều địa phương và doanh nghiệp còn lúng túng chuyển hóa mục tiêu giảm phát thải thành dự án cụ thể…
Tăng tốc thực thi chuyển đổi xanh
Bước vào giai đoạn tăng tốc của chuyển đổi xanh, yêu cầu đặt ra đối với ngành là tổ chức thực thi để chính sách đi vào đời sống, tạo chuyển biến đo đếm được trong môi trường, tài nguyên và chất lượng sống của người dân.
Trước hết, cần phải hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ dự án xanh, thúc đẩy tín dụng xanh và đầu tư vào các ngành kinh tế thân thiện với môi trường. Trong quản lý tài nguyên nước - lĩnh vực chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, trọng tâm không còn là xử lý tình huống khi xảy ra hạn hán, xâm nhập mặn hay ô nhiễm, mà phải quản trị rủi ro chủ động, dài hạn theo lưu vực sông. Xây dựng Chiến lược tài nguyên nước quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; hoàn thiện quy hoạch tài nguyên nước trên các lưu vực sông lớn như Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Kôn - Hà Thanh, chính là nền tảng để quản lý nước không theo ranh giới hành chính, mà theo quy luật tự nhiên của dòng chảy và hệ sinh thái.
Cùng với quy hoạch, các kế hoạch, chương trình, đề án phục hồi nguồn nước suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm sẽ cần được xây dựng, như thí điểm phục hồi tại các sông Bắc Hưng Hải, Nhuệ, Đáy, Ngũ Huyện Khê để không chỉ xử lý ô nhiễm, mà còn tìm kiếm mô hình quản trị nước bền vững cho các vùng kinh tế trọng điểm.
Việc tổ chức thực hiện Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ cùng với xây dựng Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (thay thế) nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hiện đại hơn cho quản trị biển. Cùng với đó là việc tiếp tục triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, các chương trình điều tra cơ bản và truyền thông về biển, đại dương đến năm 2030, tầm nhìn 2045, để phát triển đi đôi với bảo tồn và gìn giữ không gian sinh thái biển.
Đối với công tác bảo vệ môi trường, năm 2026 được xác định là năm tăng tốc chuyển từ xử lý ô nhiễm sang phòng ngừa và quản lý bền vững. Ngành cần phải nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành, liên địa phương trong triển khai Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, nhất là trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Trọng tâm là hướng dẫn lộ trình chuyển đổi công nghệ xử lý theo hướng tiên tiến, thân thiện môi trường, phấn đấu giảm tỷ lệ chôn lấp trực tiếp xuống dưới 30% vào năm 2026. Đồng thời, môi trường tại các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung và cụm công nghiệp cần được tập trung kiểm soát.
Về ô nhiễm không khí, ngành cần tiếp tục triển khai Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2026 - 2030; tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng quan trắc, ưu tiên các đô thị thường xuyên có chất lượng không khí kém; công bố kịp thời kết quả quan trắc và cảnh báo cho cộng đồng. Cùng với đó là triển khai Quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia, rà soát, khoanh vùng và xử lý các khu vực ô nhiễm đất, ô nhiễm nghiêm trọng, hỗ trợ các địa phương xử lý tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật.
Ứng phó biến đổi khí hậu tiếp tục là trục xuyên suốt trong toàn bộ chương trình hành động năm 2026. Ngành cần tập trung nội luật hóa các quy định quốc tế mới về biến đổi khí hậu, chú ý các nội dung liên quan đến thị trường carbon, trao đổi tín chỉ carbon; triển khai Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu; vận hành hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng cấp quốc gia; lồng ghép nội dung khí hậu vào chiến lược, quy hoạch phát triển...
Theo Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, phát triển xanh và ứng phó biến đổi khí hậu không còn là nhiệm vụ riêng của một ngành mà là yêu cầu xuyên suốt đối với toàn bộ nền kinh tế. Mọi quyết định phát triển trong thời gian tới đều phải gắn với mục tiêu phát thải ròng bằng 0.