Thí điểm phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho 110 cơ sở

Thứ tư, 24/12/2025 | 15:00 GMT+7
Ngày 24/12, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo về việc phê duyệt tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho năm 2025 - 2026.

Cần bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu giảm phát thải và duy trì động lực tăng trưởng

Theo Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ngày 13/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, 110 cơ sở (34 nhà máy nhiệt điện, 25 cơ sở sản xuất sắt thép, 51 cơ sở sản xuất xi măng) đủ điều kiện để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép thí điểm phân bổ hạn ngạch.

Thông tin tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành cho biết, giai đoạn 2022 - 2024 chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19 và giai đoạn hậu COVID-19 khiến chuỗi sản xuất bị đứt gãy, số liệu sản xuất của nhiều cơ sở ở mức rất thấp, nếu áp dụng cứng nhắc số liệu của giai đoạn này để áp hạn ngạch cho tương lai, doanh nghiệp có thể sẽ không đủ dư địa để sản xuất, phục hồi. Do đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã làm việc với các hiệp hội, tập đoàn và Bộ, ngành liên quan để xây dựng hệ số điều chỉnh hạn ngạch. Hệ số này dựa trên 3 yếu tố: mục tiêu tăng trưởng, mục tiêu giảm phát thải và năng lực công nghệ của cơ sở.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp. (Ảnh: VGP)

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất, tổng lượng hạn ngạch phân bổ cho các nhà máy nhiệt điện thấp hơn 1,6 - 2% so với tổng lượng phát thải dự kiến của các nhà máy này trong năm 2025 - 2026.

Tổng lượng hạn ngạch phân bổ cho các cơ sở sản xuất sắt thép (thép thô) thấp hơn 3,8 - 4,4% so với tổng lượng phát thải dự kiến của các cơ sở này trong năm 2025 - 2026.

Tổng lượng hạn ngạch phân bổ cho các cơ sở sản xuất xi măng (clanhke) thấp hơn 4 - 4,5% so với tổng lượng phát thải dự kiến của các cơ sở này trong năm 2025 - 2026.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân kiến nghị rà soát, đánh giá phương thức xác định và phân bổ hạn ngạch phát thải, trong đó cần tính đến thực tế sản xuất, khác biệt về công nghệ, thiết bị và nguyên liệu giữa các cơ sở, mức độ. Bên cạnh đó, cần có cơ chế đo đạc, kiểm tra độc lập để bảo đảm số liệu phát thải trung thực vì các Bộ quản lý chuyên ngành chỉ có thể thẩm định quy trình chứ không thể xác nhận chính xác các con số do doanh nghiệp tự báo cáo.

Theo đại diện các tập đoàn năng lượng, than – khoáng sản, xi măng, vật liệu xây dựng… việc triển khai phân bổ hạn ngạch phát thải cần bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu giảm phát thải và duy trì động lực tăng trưởng. Các doanh nghiệp kiến nghị chuyển phương pháp giao hạn ngạch từ cách tiếp cận tuyệt đối sang định mức phát thải trên một đơn vị sản phẩm nhằm tránh kìm hãm những doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất và khuyến khích đầu tư công nghệ sạch. Doanh nghiệp cũng mong muốn được áp dụng cơ chế điều phối hạn ngạch linh hoạt trong nội bộ, đồng thời sớm vận hành thị trường tín chỉ carbon minh bạch.

Hoàn thiện cơ chế quản lý để áp dụng trên toàn quốc từ năm 2028

Phát biểu tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho biết, việc giao hạn ngạch và triển khai thực tế sẽ tạo ra áp lực thay đổi cho doanh nghiệp, không chỉ giảm ô nhiễm, giảm khí nhà kính mà còn góp phần thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến, hoàn thiện các biện pháp quản trị, nâng cao năng lực sản xuất và bảo vệ môi trường tốt hơn.

Cùng với đó, chính sách phải hoàn chỉnh, cho phép những đơn vị cắt giảm tốt có quyền bán, thương mại hóa hoặc trao đổi phần hạn ngạch dư thừa cho các đơn vị khác, hướng tới xây dựng cơ chế thị trường để biến việc giảm phát thải thành nguồn lực.

Ảnh minh họa

Phó Thủ tướng nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên Việt Nam thực hiện phân bổ hạn ngạch phát thải. Dù mang tính chất thí điểm để làm quen với việc kiểm soát phát thải nhưng thực hiện phải nghiêm túc, quy định pháp lý rõ ràng, tránh hình thức. Đây như là bước đệm quan trọng để hoàn thiện cơ chế quản lý trước khi áp dụng bắt buộc trên phạm vi toàn quốc.

Phó Thủ tướng yêu cầu trong quá trình thí điểm phải tính toán cụ thể hạn ngạch cho từng lĩnh vực (xi măng, thép, điện...), xác định rõ quy mô doanh nghiệp đưa vào thí điểm để rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho việc triển khai trên 100% các đối tượng phát thải sau này.

Việc thí điểm không chỉ dừng lại ở con số hạn ngạch mà là quá trình hoàn thiện đồng bộ từ phương pháp đo đạc, kiểm đếm, thống kê, báo cáo, thẩm định đến những vấn đề pháp lý và kỹ thuật. Các phương pháp này phải dựa trên cơ sở khoa học chắc chắn, phù hợp với chuẩn mực quốc tế (như Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu - UNFCC) để đảm bảo số liệu được quốc tế thừa nhận. Điều này gắn liền với trách nhiệm và cam kết của Việt Nam trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).

Phó Thủ tướng thống nhất phương án ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường quyết định xác định tổng hạn ngạch cho các lĩnh vực được thí điểm; chịu trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành, hiệp hội liên quan để phân bổ hạn ngạch cụ thể đến từng lĩnh vực và lựa chọn doanh nghiệp tham gia thí điểm.

Phó Thủ tướng yêu cầu việc phân bổ phải đảm bảo tính khoa học, khách quan, minh bạch và công bằng. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đóng vai trò "trọng tài" về phương pháp và cách thức xác định, kiểm tra việc thực hiện phân bổ hạn ngạch. Các doanh nghiệp tham gia thí điểm phải tự tính toán, thuê chuyên gia đánh giá và có đơn vị độc lập đo đạc, chứng nhận số liệu báo cáo.

Phó Thủ tướng cũng chỉ đạo về lộ trình thực hiện. Theo đó, giai đoạn từ nay đến năm 2027 sẽ tập trung thí điểm để hoàn thiện đồng bộ các cơ chế, chính sách. Từ năm 2028, việc quản lý hạn ngạch phát thải sẽ được triển khai chính thức và bắt buộc trên phạm vi toàn quốc đối với tất cả các lĩnh vực, doanh nghiệp.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường phải công bố công khai lộ trình này ngay từ bây giờ để doanh nghiệp biết và chủ động chuẩn bị, tránh tình trạng bị động khi áp dụng chính thức; rà soát và bổ sung các quy định pháp lý về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên liên quan (cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị đo đạc, chứng nhận, doanh nghiệp). Đặc biệt, cần bổ sung chế tài xử phạt đối với những hành vi vi phạm, gian lận số liệu, cũng như các công cụ kinh tế để khuyến khích giảm phát thải, “chỉ khi hình thành được thị trường trao đổi tín chỉ và hạn ngạch, có cơ chế mua bán rõ ràng, doanh nghiệp mới thực sự có động lực tham gia”.

Nhã Quyên (t/h)