Số lượng sinh vật biển giảm mạnh nếu nền nhiệt trái đất ấm lên

Thứ năm, 17/2/2022 | 15:25 GMT+7
Ngày 16/2, tạp chí Hiệp hội sinh thái học Mỹ (ESA) công bố kết quả một nghiên cứu mới từ các nhà khoa học thuộc Đại học Queensland (Australia) về tầm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự thay đổi, biến mất của các loài sinh vật biển.

Cụ thể, nhóm các chuyên gia thuộc Đại học Queensland đã hoàn tất danh sách hơn 45.000 loài sinh vật biển đang bị đe dọa do tình trạng ấm lên toàn cầu và các nhân tố khác liên quan đến môi trường.

Tiến sĩ Nathale Butt, khoa Khoa học môi trường và trái đất thuộc Đại học Queensland cho biết, nghiên cứu đã phân cấp các mối đe dọa đối với các loài sinh vật biển khác nhau. 

Theo đó, san hô và các sinh vật không xương sống khác gắn với san hô thuộc nhóm bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi những điều kiện nước như độ acid và độ muối, với mức độ nguy cơ từ 0,4 đến 0,5 trên thang đánh giá từ 0 đến 1.

Bên cạnh đó, nhiệt độ nước tăng có liên quan đến việc độ acid của đại dương tăng lên, tạo môi trường không thuận lợi cho quá trình hình thành lớp vỏ của một số động vật thân mềm hoặc giáp xác.

Trong khi đó các động vật lớn hơn có độ nhạy cảm lớn hơn với tác động trực tiếp như hủy hoại môi trường và hoạt động đánh bắt cá. Cá heo, rùa, cá mập và chim biển đều có độ nhạy cảm từ 0,5 đến 0,6 trước hoạt động đánh bắt cá.

Trái đất nóng lên gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các loài sinh vật biển

Nhìn chung, ô nhiễm do các chất vô cơ và nhiệt độ nước tác động đến nhiều loài nhất, lần lượt ảnh hưởng tới 31% và 27% trong tổng số 45.000 loài.

Theo các nhà khoa học, nhiệt độ ấm lên trong môi trường biển dẫn đến nhiều thay đổi từ sự phân bổ về giới, mật độ tập trung của các loài, tới việc làm sinh sôi nhanh chóng các loại vi khuẩn, vi trùng nguy hiểm đe dọa sự sống của các loài động vật biển, kéo theo đó là những hệ lụy tới sức khỏe con người do tiêu thụ các loại thực phẩm biển nhiễm bệnh.

Qua nghiên cứu, các chuyên gia về khí hậu nhận thấy rằng, khi nhiệt độ tăng cao sẽ làm chậm sự hòa trộn giữa bề mặt của vùng nước ấm và nước mát. Việc này sẽ giúp sản sinh ra nhiều oxy ở dưới mặt nước.

Sự phân tầng đại dương này có nghĩa là lượng nước ít hơn ở phía dưới đại dương sẽ dâng lên bề mặt mang theo oxy và các chất dinh dưỡng, trong khi nước ở trên bề mặt đại dương hấp thu ít khí carbon dioxde hơn để đẩy chúng xuống dưới đại dương. Đây là tin xấu với các sinh vật biển. Tình trạng này còn dẫn đến việc nhiều cơn bão lớn xuất hiện, gây tuyệt chủng hàng loạt các loài.

Do đó, nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Queensland được đánh giá là đã cung cấp những hiểu biết “có một không hai” về lĩnh vực bảo tồn đại dương, thông qua việc phân loại các loài và nguy cơ đối với từng loài, xét theo những đặc điểm sinh học chung và tác nhân môi trường. 

Theo Phó Giáo sư Carissa Klein, thành viên nhóm nghiên cứu, các nhà bảo tồn có thể sử dụng danh sách này để xác định ưu tiên nguồn lực bảo tồn, xác định cách thức quản lý và địa điểm tốt nhất để bảo vệ các loài, nhóm cụ thể.

Nhóm nghiên cứu hy vọng dự án này sẽ đóng vai trò là cơ sở dữ liệu lõi và sẽ được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới.

Mỹ Dung (T/H)