Tiết kiệm điện năng

Tham vấn dự án xây dựng kế hoạch quản lý hiệu quả lạnh quốc gia

Thứ sáu, 3/7/2020 | 10:10 GMT+7
Hội thảo tham vấn Dự án xây dựng kế hoạch quản lý hiệu quả lạnh quốc gia (Dự án K-CEP) do Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công Thương (Vụ TKNL&PTBV), Viện Sinh thái và Môi trường (EEI) và Công ty CP Tư vấn Năng lượng và Môi trường (VNEEC) phối hợp tổ chức; được tài trợ bởi Ngân hàng Thế giới (WB) mới đây đã diễn ra tại Hà Nội.

Hội thảo nhằm giới thiệu hợp phần 2 của dự án K-CEP; hiện trạng và dự báo về hiệu suất năng lượng, môi chất lạnh cũng như các công nghệ điều hòa hiệu suất cao của thị trường điều hòa không khí (ĐHKK); đồng thời trình bày về các kịch bản TKNL và giảm phát thải các chất làm suy giảm tầng ô-zôn cho ĐHKK dân dụng tại Việt Nam.

Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Vụ trưởng Vụ TKNL&PTBV Nguyễn Việt Dũng giới thiệu sơ lược với các đại biểu về bối cảnh dự án. Hiện nay, nước ta đã và đang thực hiện các cam kết giảm phát thải khí nhà kính và loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-zôn nhằm thực hiện cam kết quốc gia khi tham gia Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn và Công ước khung Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu.

Chủ trương của Chính phủ là vậy nhưng thực tế lại đặt ra nhiều thách thức để thực hiện những cam kết này. Cụ thể, theo ông Nguyễn Việt Dũng, thị trường ĐHKK tại Việt Nam ngày càng tăng cao, cùng với đó là nhu cầu sử dụng năng lượng không ngừng tăng cũng như lượng phát thải từ các môi chất lạnh có khả năng làm nóng lên toàn cầu và phá hủy tầng ô-zôn cũng thải ra môi trường nhiều hơn. 

Các đại biểu trao đổi, thảo luận tại hội thảo

Theo Phó Vụ trưởng Vụ TKNL&PTBV, quỹ K-CEP ra đời sẽ bổ sung cho các mục tiêu TKNL, đặc biệt liên quan đến giảm dần HFC, bên cạnh các hỗ trợ từ Quỹ đa phương về ô-zôn nhằm thay thế môi chất lạnh HCFC-22 bằng các môi chất ít gây hại cho môi trường hơn như R-32. Hợp phần 2 của dự án được giới thiệu tại hội thảo này sẽ kế thừa những kết quả từ hợp phần 1 và tập trung vào việc chuyển giao công nghệ hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước tiếp cận kiến thức, công nghệ sản xuất ĐHKK HFC-32 biến tần. Đây là những nỗ lực cụ thể được phối hợp giữa Vụ TKNL&PTBV, Bộ Công Thương và Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường - đơn vị quản lý thực hiện hợp phần trước.

Tại hội thảo, ông Đặng Hải Dũng, chuyên viên Vụ TKNL&PTBV chia sẻ, theo khảo sát sơ bộ của Bộ Công Thương, hiện nay, hơn 90% thiết bị điện gia đình đang sử dụng có dán nhãn năng lượng. Lượng bóng đèn sợi đốt cũng giảm từ khoảng 50 triệu chiếc xuống dưới 6 triệu chiếc, chủ yếu chỉ còn tồn tại rải rác ở một số vùng nông thôn, vùng núi không phải điểm tiêu thụ điện trọng điểm. Hiệu suất năng lượng của ĐHKK cũng được nâng lên khoảng 13% mỗi năm và dự kiến sẽ khả quan hơn nữa khi thị trường xuất hiện thêm các dòng sản phẩm hiệu suất cao. Đây là những kết quả rất đáng khích lệ, phản ánh chủ trương và hành động đúng đắn của Chính phủ cũng như sự thay đổi tích cực của các doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng. 

Tuy nhiên, ông Đặng Hải Dũng cũng nhấn mạnh, trong thời gian tới, do điều kiện thực tế đặt ra nhiều thách thức mới như nhu cầu năng lượng không ngừng tăng, các sự cố bất thường về thiên tai và truyền tải, các nguồn năng lượng truyền thống ngày càng khan hiếm... đặt ra áp lực không nhỏ buộc chúng ta phải tìm nhiều biện pháp hơn trong việc cắt giảm khí nhà kính và TKNL.

Bà Nguyễn Mỹ Hoàng, Giám đốc dự án K-CEP cho rằng, đây là thời điểm rất thích hợp để các bên liên quan, bao gồm các cơ quan quản lý - nghiên cứu - doanh nghiệp - người dân, cùng chung tay thực hiện các mục tiêu chung nhằm TKNL và giảm lượng khí thải trong sinh hoạt, bảo vệ tầng sinh quyển. 

Theo bà Nguyễn Mỹ Hoàng, dự án đã và đang phối hợp cùng đầu mối của các bộ để thành lập tổ chuyên gia tham vấn. Bên cạnh đó, dự án sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động đánh giá, phân tích hiện trạng lĩnh vực lạnh và ĐHKK để đưa ra các kịch bản TKNL và cắt giảm khí nhà kính; từ đó tham vấn kế hoạch, lộ trình hành động đúng đắn cho các bên. Kết quả cuối của dự án theo kế hoạch sẽ được công bố vào tháng 8/2020.

Các dòng máy sử dụng công nghệ inverter và môi chất lạnh R-32 có hiệu suất năng lượng vượt trội. (Ảnh minh họa)

Ông Nguyễn Tiến Hải, trưởng nhóm Kỹ thuật dự án đã trình bày về đánh giá hiện trạng và dự báo hiệu suất năng lượng, môi chất lạnh và công nghệ hiệu suất cao cho ĐHKK dân dụng tại Việt Nam.

Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu, thị trường ĐHKK hàng năm có mức tăng trưởng trung bình trên 25%, với năm 2019 hơn 2,5 triệu chiếc đã được tiêu thụ. Theo đó, tỷ lệ ĐHKK treo tường chiếm đa số (89,6%). 

Cũng theo báo cáo, xét về công nghệ TKNL, hiện nay dòng ĐHKK sử dụng công nghệ inverter đang chiếm ưu thế với tỷ lệ 63% máy ĐHKK có trang bị công nghệ này. Trưởng nhóm nghiên cứu cũng cho biết đây là một cho 2 tiêu chí được người tiêu dùng quan tâm hàng đầu khi chọn mua ĐHKK gia dụng, bên cạnh yếu tố giá cả. 

Về môi chất lạnh, trong tổng số 4.015 sản phẩm ĐHKK được lấy mẫu khảo sát, có gần 1/2 sử dụng môi chất ít gây hại môi trường R-32. Xét về mối liên hệ giữa môi chất lạnh và hiệu quả năng lượng, ông Hải cho biết các dòng máy sử dụng công nghệ inverter và môi chất lạnh R-32 có hiệu suất năng lượng (CSPF) vượt trội, lên tới 5.36, so với dòng máy inverter khách là khoảng 4.77. 

Từ nghiên cứu xu hướng tiêu dùng và công nghệ sản xuất, ông Hải cho rằng trong vòng 5 năm tới, ĐHKK công nghệ inverter môi chất lạnh R-32 sẽ chiếm lĩnh thị trường, tăng từ 88% sản phẩm tiêu thụ hiện nay lên 99% vào năm 2027 và có thể đạt tới 100% vào những năm tiếp theo.

Tiến Đạt