Ngày 11/9, tại Hà Nội, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam và Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam phối hợp cùng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức hội thảo tổng kết dự án Thách thức đổi mới sáng tạo giảm ô nhiễm nhựa (EPPIC).
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhấn mạnh, ô nhiễm rác thải nhựa đại dương là một trong những thách thức nghiêm trọng mang tính xuyên biên giới, là mối đe dọa đối với hệ sinh thái và môi trường ven biển, đại dương. Xuất phát từ thực tiễn, dự án EPPIC được UNDP triển khai từ năm 2020 đến nay nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo giảm thiểu ô nhiễm rác thải nhựa đại dương tại khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam đã thu được nhiều kết quả tích cực.

Ô nhiễm rác thải nhựa đại dương là mối đe dọa đối với hệ sinh thái và môi trường ven biển, đại dương
Trong 5 năm triển khai, dự án đã thu hút 350 hồ sơ ý tưởng từ các nước ASEAN, với nhiều giải pháp đột phá được đưa vào ứng dụng thực tiễn. Gần 3.500 tấn nhựa được ngăn chặn, tránh phát thải trực tiếp ra môi trường.
Đó là những sáng kiến tiêu biểu: ống hút cỏ GreenJoy (Việt Nam), công nghệ tái chế không dung môi CIRAC (Thái Lan), trạm nạp lại sản phẩm tiêu dùng Siklus (Indonesia), nền tảng tái chế kỹ thuật số TrashCash (Philippines). Các mô hình chứng minh vai trò của đổi mới sáng tạo trong việc thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, mở ra cơ hội sinh kế mới cho cộng đồng.
Bên cạnh khoản tài trợ ươm tạo 18.000 USD, dự án còn huy động hơn 700.000 USD từ các nhà đầu tư và quỹ hỗ trợ đổi mới. Tại Việt Nam, nhiều hoạt động thí điểm đã được triển khai, từ ứng dụng di động "Săn rác" giúp cộng đồng phát hiện và thu gom rác thải đến thử nghiệm cơ chế đặt cọc - hoàn trả (DRS) và đồng xử lý 100 tấn rác thải nhựa không thể tái chế.
Phát biểu tại sự kiện, bà Francesca Nardini, Phó Trưởng Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam chia sẻ, ngoài việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, dự án EPPIC còn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ xây dựng chính sách và thúc đẩy cách tiếp cận bao trùm trong quản lý rác thải nhựa tại các nước, trong đó có Việt Nam.
Một trong số những trọng tâm lớn là thúc đẩy trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) mang tính bao trùm, đảm bảo lợi ích cho khu vực lao động phi chính thức - những người giữ vai trò quan trọng trong chuỗi thu gom và tái chế.
Theo bà Francesca Nardini, dự án cũng đã cung cấp hỗ trợ cần thiết cho Việt Nam trong quá trình chuẩn bị và tham gia đàm phán hiệp ước toàn cầu về ô nhiễm nhựa, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo ông Nguyễn Đức Toàn, trong thời gian tới, Việt Nam rất cần có sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, sự đồng hành của doanh nghiệp và tham gia của cộng đồng địa phương để đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển; tạo đồng thuận chiến lược giữa các bên; tích hợp chính sách - công nghệ - truyền thông trong một khung quản trị thống nhất.
Bên cạnh đó, với mục tiêu tăng cường hợp tác nhiều bên nhằm giải quyết ô nhiễm nhựa theo chuỗi giá trị, lãnh đạo Cục Biển và Hải đảo Việt Nam khuyến nghị các địa phương đẩy mạnh chuyển đổi hệ thống quản lý nhựa, thúc đẩy đầu tư vào giải pháp tuần hoàn và đổi mới sáng tạo theo đúng chủ trương, đường lối của Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Đồng thời, cần nghiên cứu thiết lập và phát triển khuôn khổ cơ chế hợp tác tài chính đại dương, huy động nguồn lực từ các ngành kinh tế biển để tái đầu tư cho môi trường và cộng đồng ven biển, hướng tới mục tiêu quản lý đại dương bền vững.