Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội cho phép Hà Nội được thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện các dự án lớn, quan trọng trên địa bàn Thủ đô là cần thiết và cấp bách nhằm khơi thông các điểm “nghẽn” pháp lý, thu hút đầu tư, tạo đột phá, phát triển nhanh, bền vững hơn, có sức lan tỏa lớn hơn trong phát triển kinh tế vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.
Nghị quyết sẽ tạo tiền đề vững chắc để Thủ đô đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 11%/năm trở lên, đồng thời phù hợp với yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, tăng cường phân cấp, phân quyền cho Thủ đô theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị. Trên cơ sở kết quả thực hiện thí điểm của thành phố Hà Nội sẽ sơ kết, tổng kết để cho phép áp dụng thống nhất trên cả nước khi phát huy hiệu quả trên thực tế.

Quang cảnh phiên họp
Dự án lớn, quan trọng trên địa bàn Thủ đô là các dự án:
Dự án đầu tư công, dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (sau đây gọi là dự án đầu tư PPP), dự án đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư cần triển khai ngay theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng ủy Chính phủ, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội;
Dự án đầu tư công, dự án đầu tư PPP đáp ứng tiêu chí dự án quan trọng quốc gia; dự án sử dụng vốn ngân sách địa phương, nguồn vốn hợp pháp của địa phương trên địa bàn thành phố có tổng mức đầu tư từ 30.000 tỷ đồng trở lên;
Dự án đầu tư thuộc danh mục dự án thu hút nhà đầu tư chiến lược theo quy định của pháp luật về Thủ đô có tổng vốn đầu tư từ 30.000 tỷ đồng trở lên;
Dự án cải tạo, chỉnh trang, tái thiết khu vực đô thị, bao gồm các dự án xây dựng lại chung cư hết thời hạn sử dụng hoặc chưa hết thời hạn sử dụng theo hồ sơ thiết kế nhưng bị hư hỏng, có nguy cơ đổ sập không bảo đảm an toàn cho chủ sở hữu, người sử dụng nhà chung cư và đã được kiểm định chất lượng, đánh giá chung cư theo quy định của pháp luật về nhà ở hoặc các dự án cải tạo, chỉnh trang ô phố đô thị theo quy định của pháp luật về Thủ đô;
Dự án đầu tư mới, cải tạo công trình để xử lý các điểm nghẽn, cấp bách về ùn tắc giao thông, úng ngập, ô nhiễm môi trường, trật tự đô thị.
Dự thảo Nghị quyết được bố cục thành 12 điều. Nội dung dự thảo Nghị quyết quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội so với một số luật hiện hành về những vấn đề quan trọng như: thẩm quyền quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư; về lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu; chính sách về quy hoạch, kiến trúc; thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; cơ chế huy động vốn thực hiện dự án; biện pháp bảo đảm trật tự đô thị, trật tự, an toàn xã hội; biện pháp cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 2 điều 10 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 64/2025/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 87/2025/QH15, khoản 5 điều 5 Luật Tổ chức Quốc hội, thẩm quyền ban hành Nghị quyết là của Quốc hội.
Trình bày tóm tắt báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Ủy ban Kinh tế và Tài chính tán thành với sự cần thiết, cơ sở chính trị và cơ sở thực tiễn xây dựng ban hành Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn nhằm thể chế hóa chủ trương của Bộ Chính trị tại công văn số 19076-CV/VPTW ngày 21/11/2025, góp phần tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, huy động nguồn lực, thúc đẩy phát triển Thủ đô nhanh, bền vững, hiện đại, có sức lan tỏa vùng và cả nước. Hồ sơ dự thảo Nghị quyết đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị Chính phủ rà soát kỹ, bám sát Kết luận của Bộ Chính trị tại công văn số 19076-CV/VPTW ngày 21/11/2025 và các quy định mới của luật, nghị quyết đang trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10; chỉ quy định những cơ chế, chính sách thật sự cần thiết, đặc thù, áp dụng riêng cho Thủ đô và thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.
Đối với các cơ chế, chính sách đặc biệt, có phạm vi tác động lớn như mở rộng trường hợp thu hồi đất (khoản 2 điều 7), phân cấp thẩm quyền quyết định, chấp thuận đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ cho thành phố Hà Nội (điều 4), vượt trần tín dụng (khoản 2 điều 8), cưỡng chế khi đạt 75% đồng thuận (khoản 4 điều 10), để bảo đảm đủ cơ sở pháp lý, chính trị, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị, báo cáo cấp có thẩm quyền, đồng thời đánh giá kỹ tác động pháp lý, kinh tế, xã hội, bảo đảm không phát sinh khiếu kiện, khiếu nại phức tạp, ảnh hưởng đến ổn định xã hội và niềm tin của người dân, phù hợp với Hiến pháp và chủ trương của Đảng.