Năng lượng gió

Phát triển điện gió ngoài khơi vì tương lai năng lượng sạch của Việt Nam

Thứ năm, 16/12/2021 | 18:24 GMT+7
Theo các chuyên gia, điện gió ngoài khơi cần phải đóng vai trò quan trọng trong tổng cung năng lượng của Việt Nam trong thời gian tới, là một cột trụ quan trọng trong công cuộc chuyển dịch sang năng lượng sạch của nước ta.

Ngày 16/12, Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) đồng tổ chức hội thảo “Phát triển điện gió ngoài khơi vì tương lai năng lượng sạch của Việt Nam”.

Tham gia trực tiếp tại hội thảo có trên 70 đại biểu là lãnh đạo, đại diện các Bộ, ban ngành Trung ương và địa phương, Đại sứ quán một số nước và tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các chuyên gia, nhà khoa học đến từ các hiệp hội, viện nghiên cứu, trường đại học, lãnh đạo các tập đoàn, doanh nghiệp tham gia vào quá trình phát triển dự án và chuỗi giá trị của điện gió ngoài khơi cũng như các loại hình năng lượng tái tạo khác, các ngân hàng và tổ chức tài chính… Bên cạnh đó, hội thảo còn thu hút được sự tham gia của hơn 400 đại biểu trong nước và quốc tế qua hình thức trực tuyến tại các điểm cầu.

Hội thảo được tổ chức nhằm tạo ra diễn đàn đối thoại cởi mở giữa các đại biểu trong và ngoài nước để cùng tìm kiếm các giải pháp, cơ chế đột phá để phát triển ngành, gắn với việc hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về “Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.  

Một cột trụ quan trọng trong công cuộc chuyển dịch năng lượng quốc gia

Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết: Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đường bờ biển trải dài hơn 3.000 km với 28 tỉnh, thành phố ven biển vì vậy tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam vô cùng lớn. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là nước có tiềm năng năng lượng gió lớn nhất trong 4 nước của khu vực là Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam được ước tính là có tốc độ gió trung bình hàng năm lớn hơn 6m/s ở độ cao 65 m, tương đương công suất khoảng 512 GW. Năm 2020, dự báo của Tổ chức Năng lượng thế giới (IEA) nhận định rằng, Việt Nam sẽ là 1 trong 5 trung tâm điện gió biển khu vực Đông Nam Á của thế giới cùng với Bắc Âu, Mỹ, Đông Á, Nam Mỹ.  

Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tính đến hết ngày 31/10/2021, Việt Nam đã có 88 dự án điện gió hòa lưới với tổng công suất đặt khoảng 4,2 GW; đối với điện gió ngoài khơi, hiện đã có 35 dự án đang nghiên cứu và triển khai với tổng công suất dự kiến lên đến 60 GW. Điều này cho thấy tiềm năng điện gió ngoài khơi của chúng ta là rất lớn, hoàn toàn đảm bảo đáp ứng nhu cầu điện năng trong tương lai. Bên cạnh đó, cùng với năng lực và kinh nghiệm xây dựng các công trình ngoài khơi, các công trình biển và hệ thống logistics phụ trợ của ngành dầu khí hiện nay, Việt Nam có thể phát huy tốt nội lực để phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi gắn với chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistic trong những năm tới. 

Điện gió ngoài khơi được đánh giá là nguồn năng lượng tái tạo duy nhất có khả năng chạy phụ tải nền cho hệ thống điện

Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển thị trường điện gió ngoài khơi với quy mô 5 - 10 GW vào năm 2030, giúp tạo ra tổng giá trị gia tăng hơn 60 tỉ USD cho nền kinh tế. Nhiều tổ chức quốc tế cũng khuyến nghị quy mô tối thiểu để bảo đảm tính hiệu quả về quy mô của ngành điện gió ngoài khơi của Việt Nam tối thiểu khoảng 5 GW.  

“Một số kết quả nghiên cứu và thực tiễn về chuyển đổi năng lượng đã chứng minh rằng việc phát triển điện gió ngoài khơi để sản xuất hydro và amoniac để phục vụ thị trường nội địa và hướng đến xuất khẩu là sự kết hợp khá hoàn hảo nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng và lợi thế quy mô để nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tài nguyên gió và sản xuất năng lượng, sản phẩm sạch hơn”, ông Nguyễn Đức Hiển chia sẻ.

Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An, hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đang đề xuất phát triển các dự án điện gió ngoài khơi tới Bộ Công Thương và Chính phủ với công suất đã lên đến 110 GW. Cam kết của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam tại COP26 vừa qua đã cho thấy cơ hội phát triển của điện gió ngoài khơi là rất lớn và tiềm năng. 

“Hiện nay, Bộ Công Thương đang hoàn thiện dự thảo Quy hoạch điện VIII. Trong đó, chúng tôi dự kiến đề xuất quy mô các dự án điện gió ngoài khơi lên khoảng 5.000 MW vào năm 2030 và tăng dần với quy mô trên 40.000 MW vào năm 2045. Nếu điều kiện kinh tế và kỹ thuật cho phép thì có thể phát triển nhiều hơn nữa và sớm hơn nữa điện gió ngoài khơi. 

Theo đánh giá, điện gió ngoài khơi có thể và cần phải đóng vai trò quan trọng trong tổng cung năng lượng của Việt Nam trong thời gian tới. Phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam còn giúp lan tỏa, tạo ra công ăn việc làm và từng bước hình thành nền công nghệ phụ trợ hỗ trợ cho lĩnh vực phát triển điện gió tại Việt Nam. Có thể nói đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với lĩnh vực điện gió ngoài khơi tại Việt Nam”, Thứ trưởng Đặng Hoàng An nhấn mạnh.

Phát biểu tại hội thảo, ông Ben Backwell, Giám đốc điều hành Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu cho rằng: Đây là một thời điểm tuyệt vời cho ngành điện gió Việt Nam. Điện gió trên bờ đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua với hơn 3,98 GW công suất được bổ sung trong năm 2021. Với con số ấn tượng trên, Việt Nam hiện là thị trường điện gió phát triển nhanh nhất Đông Nam Á, cũng như nhanh thứ hai tại châu Á nói chung. Trong khi đó, điện gió ngoài khơi đã sẵn sàng để trở thành một cột trụ quan trọng trong công cuộc chuyển dịch năng lượng quốc gia và chúng tôi cho rằng việc nhanh chóng phát triển nguồn điện tuyệt vời này là hết sức cấp thiết cho tham vọng giảm phát thải ròng của Việt Nam.  

“Với đường bờ biển dài hơn 3.200 km, Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên điện gió ngoài khơi tốt với hệ số công suất cao và số giờ tải lớn. Những tiến bộ công nghệ đạt được trong thời gian qua cũng đã tăng cường tính ổn định và dễ đoán định của điện gió ngoài khơi. Với việc đầu tư vào hệ thống truyền tải cũng như điều độ thông minh, điện gió hoàn toàn có thể trở thành nguồn chủ đạo của hệ thống năng lượng Việt Nam trong tương lai, qua đó giảm sự lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu”, ông Ben Backwell khẳng định.

Xây dựng khung chính sách hoàn chỉnh cho phát triển điện gió ngoài khơi

Thứ trưởng Đặng Hoàng An cho biết: “Quốc hội và Chính phủ Việt Nam đang xem xét thúc đẩy tiến trình xã hội hóa phát triển lưới điện truyền tải, khuyến khích doanh nghiệp chủ động vốn để đầu tư vào lưới điện truyền tải. Đây được kỳ vọng là giải pháp để tăng tốc đầu tư cho hạ tầng lưới điện truyền tải vùng ven biển, phục vụ phát triển các dự án điện gió ngoài khơi”.

Theo Thứ trưởng, Bộ Công Thương đánh giá phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam là lĩnh vực còn mới mẻ. Vì vậy còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết bao gồm việc xây dựng các cơ chế chính sách, xây dựng cơ sở hạ tầng lưới điện, nâng cao năng lực thi công, xây lắp và phát triển chuỗi cung ứng nội địa. Mục tiêu trên hết vẫn là đáp ứng đủ điện cho nền kinh tế và người dân Việt Nam với chi phí hợp lý.

Cần xây dựng khung chính sách hoàn chỉnh cho phát triển điện gió ngoài khơi

Giám đốc điều hành Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu Ben Backwell đánh giá, những cam kết mạnh mẽ được quốc tế đưa ra tại Hội nghị COP26 gần đây đã tạo lực đẩy mạnh mẽ hướng nguồn tài chính quốc tế từ năng lượng hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo mới. Việc huy động nguồn tài chính này trong giai đoạn khởi tạo ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ càng về mặt khung chính sách bao gồm cơ chế hỗ trợ, thủ tục cấp phép, cũng như hợp đồng mua bán điện phù hợp với quy chuẩn quốc tế.  

“Những yếu tố trên đặc biệt quan trọng với điện gió ngoài khơi do đặc thù ngành đòi hỏi quá trình phát triển dự án dài và phức tạp hơn so với các nguồn năng lượng tái tạo khác. Tuy nhiên, với cơ chế hỗ trợ phù hợp, điện gió ngoài khơi có thể nhanh chóng phát triển và cạnh tranh về giá với các nguồn điện khác. Kinh nghiệm thế giới cho thấy với việc hỗ trợ 4 - 5 GW đầu tiên thông qua cơ chế giá cố định sẽ  đem lại những hiệu quả rõ rệt về giảm chi phí trong dài hạn, lên đến 40 - 60%. Ngành điện gió ngoài khơi cũng đang hết sức quan tâm đến quá trình xây dựng Quy hoạch điện VIII. Việc đưa  ra quy mô công suất lắp đặt cao cũng như lộ trình triển khai rõ ràng và minh bạch sẽ giúp thu hút các nhà đầu tư cũng như nguồn tài chính tại Việt Nam”, ông Ben Backwell lưu ý.

Trong khuôn khổ hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, diễn giả và đại biểu từ Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), Tổng cục Biển và Hải đảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường), các tập đoàn năng lượng lớn trên thế giới như: Tập đoàn Copenhagen Offshore Partner (Đan Mạch), Tập đoàn Mainstream (Ailen), Tập đoàn Orsted (Đan Mạch), Tập đoàn Enterprize Energy (Anh), Tập đoàn Macquarie (Úc), Tập đoàn Equior (Nauy)... còn cùng trao đổi về các nhóm chủ đề xoay quanh vấn đề phát triển điện ngoài khơi. Theo đó, các nhóm chủ đề chính là: cơ hội, khó khăn, thách thức trong việc triển khai dự án điện gió ngoài khơi tại Việt Nam; kinh nghiệm thu xếp tài chính cho các dự án điện gió ngoài khơi trên thế giới; sự phát triển chuỗi cung ứng điện gió ngoài khơi trên thế giới và Việt Nam… Qua đó, đề xuất, kiến nghị những phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, hiệu quả cho phát triển điện gió ngoài khơi giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đỗ Hương