Năng lượng tái tạo

Thời của Năng lượng Sạch

Thứ bảy, 14/11/2015 | 12:12 GMT+7
Chưa bao giờ việc phát triển năng lượng sạch đứng trước nhiều vận hội mới như hiện nay: Từ chính sách chung của Chính phủ cho đến các khuôn khổ pháp lý đã hoàn thiện; từ ưu đãi về giá, thuế, ưu đãi về cơ sở hạ tầng, đất đai cho đến các khoản phí, vốn vay…

Đầy tiềm năng

Năng lượng sạch là năng lượng được sản xuất trên cơ sở chuyển hoá từ các nguồn năng lượng sơ cấp tái tạo, ít tác động tiêu cực đến môi trường như thuỷ năng, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt, năng lượng thuỷ triều, nhiên liệu sinh học... Năng lượng sạch cũng là năng lượng được sản xuất, cung cấp từ các nguồn năng lượng sơ cấp hóa thạch (than đá, sản phẩm dầu, khí đốt) và hạt nhân trên cơ sở sử dụng công nghệ chuyển hoá năng lượng là công nghệ sạch, công nghệ thân thiện môi trường hay bảo vệ môi trường; đồng thời, quá trình sản xuất, cung cấp năng lượng được tiến hành trong điều kiện đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt công tác quản lý tác động môi trường, tổ chức hoạt động có hiệu quả cao hệ thống giám sát, kiểm soát, phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và các tác động tiêu cực khác đến môi trường.

Theo Trung tâm Năng lượng tái tạo và Cơ chế phát triển sạch, Viện Năng lượng, Bộ Công Thương thì nước ta có tiềm năng rất lớn để phát triển các nguồn năng lượng sạch. Cụ thể, về thủy điện nhỏ, hiện nay có trên 1.000 địa điểm đã được xác định có tiềm năng phát triển thủy điện nhỏ, quy mô từ 100kW tới 30MW với tổng công suất đặt trên 7.000MW, các vị trí này tập trung chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Về năng lượng gió, chúng ta cũng được đánh giá là quốc gia có tiềm năng phát triển năng lượng gió tuy số liệu về tiềm năng khai thác năng lượng gió của Việt Nam chưa được lượng hóa đầy đủ bởi còn thiếu điều tra và đo đạc chi tiết. Số liệu đánh giá về tiềm năng năng lượng gió có sự dao động khá lớn, từ 1.800MW đến trên 9.000MW, thậm chí có số liệu còn cho thấy là trên 100.000MW. Tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam tập trung nhiều nhất tại vùng duyên hải miền Trung, miền Nam, Tây Nguyên và các đảo.

Năng lượng sinh khối chính là gỗ năng lượng, phế thải - phụ phẩm từ cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Khả năng khai thác bền vững nguồn sinh khối cho sản xuất năng lượng ở Việt Nam đạt khoảng 150 triệu tấn mỗi năm. Một số dạng sinh khối có thể khai thác được ngay về mặt kỹ thuật cho sản xuất điện hoặc áp dụng công nghệ đồng phát năng lượng (sản xuất cả điện và nhiệt) đó là trấu ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long hay bã mía dư thừa ở các nhà máy đường, rác thải sinh hoạt ở các đô thị lớn, chất thải chăn nuôi từ các trang trại gia súc, hộ gia đình và chất thải hữu cơ khác từ chế biến nông, lâm, thủy hải sản.

Với tổng số giờ nắng cao lên đến trên 2.500 giờ/năm, tổng lượng bức xạ trung bình hàng năm vào khoảng 230-250 kcal/cm²  theo hướng tăng dần về phía Nam cũng là cơ sở tốt cho phát triển các công nghệ năng lượng mặt trời - một dạng phổ biến của năng lượng sạch.

Ngoài ra, tiềm năng điện địa nhiệt ở Việt Nam có thể khai thác đến trên 300MW. Khu vực có khả năng khai thác hiệu quả nhất được cho là tại miền Trung.

Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 đặt mục tiêu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 5% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2020 và khoảng 11% nào năm 2050. 

Đã khai thác

Cùng với hàng chục trụ điện gió khổng lồ nhô lên sừng sững chạy dọc theo bờ biển Bạc Liêu hay “rải” đều tăm tắp dọc bờ biển Bình Thuận thì vừa qua, dự án phong điện Tây Nguyên cũng đã chính thức được khởi công tại xã Đliê-Yang, huyện Ea H’leo (Đắk Lắk), đưa địa phương này thành nơi sở hữu dự án nhà máy điện gió lớn nhất nhì cả nước.

Bởi xét về công suất, dự án “Trang trại Phong điện Tây Nguyên” do Công ty TNHH Giải pháp năng lượng gió HBRE (HBRE Wind Power Solution) làm chủ đầu tư có tổng kinh phí trên 6.000 tỷ đồng, tổng công suất là 120 MW và dự kiến sản lượng điện của nhà máy này sản xuất ra đủ dùng cho trên 200.000 hộ gia đình.

Trước đó, những ngày đầu năm, Bộ Công Thương, EVN, Cơ quan phát triển quốc tế Tây Ban Nha tổ chức Lễ khánh thành và bàn giao Dự án Nhà máy điện mặt trời tại huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và giao cho Tổng Công ty Điện lực miền Nam quản lý. Dự án thí điểm điện mặt trời này được bắt đầu khởi công từ giữa tháng 3/2014, hoàn thành việc xây dựng, lắp đặt, nối vào lưới điện của điện lực Côn Đảo vào đầu tháng 12/2014. Riêng dự án ở Côn Đảo này có tổng mức đầu tư khoảng 140.000 Euro do Chính phủ Tây Ban Nha viện trợ không hoàn lại. Dự án này có công suất ở mức cao nhất là 36 kW, với tổng sản lượng điện ước tính khoảng 51,5MWh/năm. Dự kiến, từ giờ tới cuối năm sẽ có thêm hàng loạt các dự án năng lượng sạch dạng này sẽ rục rịch được triển khai với quy mô ngày càng lớn.

Làm sao để hiệu quả

Theo ông Phí Văn Tuấn - Giám đốc Công ty CP Đầu tư Thương mại và Phát triển Đại Cát (DAVESTCO), người có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực này thì bức xạ mặt trời là một nguồn tài nguyên rất quan trọng tại Việt Nam. Trung bình, tổng bức xạ năng lượng mặt trời ở Việt Nam vào khoảng 5kW/h/m2/ngày ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, và vào khoảng 4kW/h/m2/ngày ở các tỉnh miền Bắc. Cụ thể, các tỉnh ở phía Bắc (từ Thừa Thiên – Huế trở ra) bình quân trong năm có chừng 1800 - 2100 giờ nắng. Trong đó, các vùng Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Lào Cai) và vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) được xem là những vùng có nắng nhiều; các tỉnh ở phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào), bình quân có khoảng 2000 - 2600 giờ nắng, lượng bức xạ mặt trời tăng 20% so với các tỉnh phía Bắc. Ở vùng này, mặt trời chiếu gần như quanh năm, kể cả vào mùa mưa. Do đó, đối với các địa phương ở Nam Trung bộ và Nam bộ, nguồn bức xạ mặt trời là một nguồn tài nguyên to lớn để khai thác sử dụng.

"Việt Nam có nguồn NLMT dồi dào cường độ bức xạ  mặt trời trung bình ngày trong năm ở phía bắc là 3,69 kWh/m2 và phía nam là 5,9 kWh/m2. Lượng bức xạ mặt trời tùy thuộc vào lượng mây và tầng khí quyển của từng địa phương, giữa các địa phương ở nước ta có sự chêng lệch đáng kể về bức xạ mặt trời. Cường độ bức xạ ở phía Nam thường cao hơn phía Bắc" - ông Tuấn cho hay.

Ông Tuấn nhận định rằng việc thành lập và ra mắt, đi vào hoạt động của Hiệp hội năng lượng sạch Việt Nam kỳ vọng sẽ giúp cho công tác nghiên cứu, thăm dò, quy hoạch, đầu tư, chuyển giao công nghệ, xây dựng, chế tạo thiết bị và phát triển sản xuất năng lượng sạch... phục vụ phát triển ngành năng lượng Việt Nam theo hướng bền vững cũng như tuyên truyền, vận động để toàn dân hưởng ứng xây dựng ngành Năng lượng Việt Nam phát triển theo xanh - sạch; Qua đó, góp phần tích cực phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Thậm chí trong tương lai, Hiệp hội sẽ có một vườn ươm và quỹ ươm các dự án năng lượng sạch. Từ đây, nuôi dưỡng, ươm mầm, cung cấp các hỗ trợ về tài sản và các nguồn lực cần thiết để ươm tạo các ý tưởng nghiên cứu năng lượng sạch và tạo điều kiện cho các ý tưởng này phát triển thành các dự án tiềm năng.

Còn ông Đặng Quốc Toản, Giám đốc Công ty Cổ phần Năng lượng Dầu khí châu Á thì đề xuất nên giảm thuế cho ngành năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng và đánh thuế cao các ngành khai thác tài nguyên không tái tạo, gây ô nhiễm môi trường như các nước phát triển đã và đang làm, để hỗ trợ lại cho năng lượng sạch. Ông Toản đề xuất sử dụng quỹ đầu tư cho lĩnh vực năng lượng sạch của WB, ADB và các nước giúp Việt Nam cho các doanh nghiệp vay ưu đãi và không lãi suất. Đầu tư nghiên cứu chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến, để sản xuất các sản phẩm sử dụng năng lượng tái tạo như bếp và hệ thống đun nước nóng bằng năng lượng mặt trời, pin mặt trời, turbine gió, biogas, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học... Và hỗ trợ vốn từ nguồn vốn của các tổ chức quốc tế và Nhà nước cho các hộ dân nghèo vay để mua bếp đun năng lượng mặt trời và máy đun nước nóng năng lượng mặt trời, điện mặt trời cho chiếu sáng, đèn compact và sản xuất nước sạch, sản phẩm nông nghiệp sạch…

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải vừa đồng ý chủ trương lập đề án "Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2016-2025, định hướng đến năm 2035".

Mục tiêu của Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 là bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, góp phần bảo đảm giữ vững an ninh, quốc phòng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước; cung cấp đầy đủ năng lượng với chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội; khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước; đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng, hình thành và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh; đẩy mạnh phát triển nguồn năng lượng mới và tái tạo, năng lượng sinh học, điện hạt nhân để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững ngành năng lượng.

 

Trần Lam Giang