Nông nghiệp sạch

Xây dựng hệ sinh thái số trong nông nghiệp

Thứ tư, 29/10/2025 | 14:48 GMT+7
Việc ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp không chỉ giúp tối ưu hóa năng suất, giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn là lời giải cho nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu, yêu cầu phát triển xanh, tiêu chuẩn bền vững và cải thiện đời sống người nông dân.

Ngày 29/10, tại Hà Nội, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phối hợp tổ chức diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai” nhằm tìm kiếm giải pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ số vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.

Phát biểu khai mạc diễn đàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh, chuyển đổi số đang mở ra hướng phát triển bền vững và thịnh vượng cho ngành nông nghiệp, lĩnh vực gắn liền với sinh kế của hàng chục triệu nông dân. Việc ứng dụng công nghệ số không chỉ giúp tối ưu hóa năng suất, giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn là lời giải cho nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu, yêu cầu phát triển xanh, tiêu chuẩn bền vững và cải thiện đời sống người nông dân.

Theo bà Cao Xuân Thu Vân, đối với khu vực hợp tác xã nông nghiệp, chuyển đổi số được coi là “đòn bẩy tăng trưởng” giúp tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, quá trình này vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản. Hiện cả nước có hơn 22.500 hợp tác xã nông nghiệp nhưng tốc độ chuyển đổi số còn chậm so với các lĩnh vực khác. Khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho thấy, mức độ chuyển đổi số trung bình mới đạt 32%; trong gần 35.000 hợp tác xã, chỉ 13,6% đã hoàn tất, khoảng 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện.

Quang cảnh diễn đàn

Các khó khăn của hợp tác xã nông nghiệp tập trung ở 5 nhóm chính gồm tài chính, hạ tầng công nghệ, nhân lực, chiến lược phát triển và chính sách hỗ trợ. Chi phí đầu tư công nghệ cao lớn, trong khi khả năng tiếp cận vốn ưu đãi còn hạn chế. Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ thông tin ở nông thôn còn yếu, nhân lực am hiểu công nghệ thiếu hụt, cùng với tâm lý e ngại thay đổi vẫn phổ biến.

Nhiều nông dân và thành viên hợp tác xã còn hiểu sai bản chất của chuyển đổi số, coi đó là việc “chạy theo” các công nghệ hào nhoáng như AI, blockchain hay IoT. Trong khi, chuyển đổi số thực chất là quá trình nâng cao năng lực quản lý và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, truy xuất nguồn gốc, giám sát chất lượng, giảm phát thải và kết nối thị trường.

Một rào cản khác nằm ở “nỗi sợ công nghệ”, sự mơ hồ và thiếu tự tin của người nông dân trước các khái niệm mới. Theo các chuyên gia, nguyên nhân xuất phát từ việc thiếu kiến thức và định hướng rõ ràng. Vì vậy, thay vì tô vẽ công nghệ như một “phép màu”, cần giúp người dân hiểu rõ công nghệ số có thể và không thể làm gì, từ đó tự tin hợp tác và sáng tạo giá trị mới.

TS Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, chuyển đổi xanh và chuyển đổi số đang là hai xu thế tất yếu, gắn liền với yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế. Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất đạt trên 400 tỷ USD, việc định hướng phát triển nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, ứng dụng công nghệ cao theo hướng “xanh” và “số” không chỉ là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc.

Theo TS Lê Đức Thịnh, hai trụ cột quan trọng của nền nông nghiệp hiện đại chính là liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số. Đây là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh, minh bạch hóa quy trình sản xuất – tiêu thụ, tạo dựng niềm tin trên thị trường trong nước và quốc tế.

Về thực trạng chuyển đổi số và liên kết chuỗi giá trị trong nông nghiệp, Việt Nam là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển mạnh, được quốc tế đánh giá cao.

Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai nhiều hoạt động cụ thể về định hướng và giải pháp xây dựng hệ sinh thái số trong nông nghiệp.

Thứ nhất, xây dựng nền tảng số dùng chung cho khu vực hợp tác xã và kinh tế tập thể, dự kiến hoàn thành và đưa vào vận hành từ tháng 6/2026. Nền tảng này sẽ kết nối dữ liệu về truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng, tiêu chuẩn sản xuất, logistics và hợp đồng điện tử.

Thứ hai, phối hợp với các đối tác quốc tế, đặc biệt là Nhật Bản để học hỏi mô hình hệ sinh thái số của Liên đoàn Hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản (JA). Bộ cũng đã ký kết hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ trong và ngoài nước để xây dựng khung dữ liệu, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

Thứ ba, trong quá trình sửa đổi Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Bộ sẽ thể chế hóa mô hình hệ sinh thái số và chuỗi liên kết số, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong nông nghiệp.

Từ thực tế, có thể thấy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp không chỉ là yêu cầu của thời đại mà là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Để thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp cần nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý về liên kết chuỗi và hệ sinh thái số; xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất; nâng cao năng lực của hợp tác xã – trung tâm của chuỗi liên kết; tăng cường hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số.

TS Lê Đức Thịnh nhấn mạnh, hệ sinh thái số trong nông nghiệp không chỉ tạo nên sự minh bạch, hiệu quả trong sản xuất mà còn mở ra không gian phát triển mới, xanh hơn – thông minh hơn – bền vững hơn cho nền nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.

Lan Anh