Năng lượng tái tạo

Bản tin năng lượng số 7/2020

Thứ hai, 24/2/2020 | 08:31 GMT+7
Thay mặt Bộ Chính trị, ngày 11/2/2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia

Mục tiêu tổng quát là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Ngành năng lượng phát triển hài hoà giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất, nhập khẩu năng lượng hợp lý; triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Chủ động sản xuất được một số thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng; nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại.

Nghị quyết nhấn mạnh đến việc xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo

Nghị quyết đưa ra một số mục tiêu cụ thể:

Cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 10 năm 2021 - 2030; trong đó, năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt khoảng 175 - 195 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2045, đạt khoảng 320 - 350 triệu TOE; tổng công suất của các nguồn điện đến năm 2030 đạt khoảng 125 - 130 GW, sản lượng điện đạt khoảng 550 - 600 tỉ kWh.

Tỉ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 - 20% vào năm 2030; 25 - 30% vào năm 2045.

Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng đến năm 2030 đạt mức 105 - 115 triệu TOE, năm 2045 đạt mức 160 - 190 triệu TOE. Cường độ năng lượng sơ cấp năm 2030 đạt từ 420 - 460 kgOE/1.000 USD GDP, năm 2045 từ 375 - 410 kgOE/1.000 USD GDP.

Xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối khu vực; bảo đảm cung cấp điện an toàn, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng. Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc Top 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc Top 3 nước dẫn đầu ASEAN.

Các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu trong nước; bảo đảm mức dự trữ chiến lược xăng dầu đạt tối thiểu 90 ngày nhập ròng. Đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hoá lỏng (LNG) khoảng 8 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỉ m3 vào năm 2045.

Tỉ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình thường đạt khoảng 7% vào năm 2030 và khoảng 14% vào năm 2045.

Giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức 15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045.

Nghị quyết nhấn mạnh tầm nhìn đến năm 2045: bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; các phân ngành năng lượng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; hệ thống hạ tầng năng lượng phát triển đồng bộ, hiện đại, khả năng kết nối khu vực và quốc tế được nâng cao; chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học - công nghệ và năng lực quản trị ngành năng lượng đạt trình độ tiên tiến của một nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Để thực hiện các mục tiêu đề ra, Bộ Chính trị đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp.

Một là phát triển các nguồn cung năng lượng sơ cấp theo hướng tăng cường khả năng tự chủ, đa dạng hoá, bảo đảm tính hiệu quả, tin cậy và bền vững. Trong đó, đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác tại các khu vực tiềm năng; xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá thạch.

Hai là phát triển nhanh và bền vững ngành điện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó, cần xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển ngành điện lực Việt Nam cho giai đoạn mới.

Ba là cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng song song với thực hiện chính sách về sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả.

Bốn là phát triển hạ tầng năng lượng bền vững, kết nối khu vực; nâng cao nội lực ngành công nghiệp chế tạo, dịch vụ phục vụ ngành năng lượng. Theo đó, có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng bền vững; chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng xuất, nhập khẩu năng lượng, kết nối khu vực…

Năm là cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng; khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia xã hội hoá phát triển năng lượng. Bộ Chính trị yêu cầu rà soát, bổ sung, điều chỉnh các cơ chế, chính sách đặc thù cho một số dự án năng lượng quan trọng. Đồng thời, tạo môi trường thuận lợi, minh bạch; công khai quy hoạch, danh mục các dự án đầu tư, xoá bỏ mọi rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự án năng lượng trong và ngoài nước.

Sáu là đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bảy là phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng.

Tám là đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tích cực, chủ động xây dựng các đối tác chiến lược để thực hiện mục tiêu nhập khẩu năng lượng trong dài hạn và đầu tư tài nguyên năng lượng ở nước ngoài.

Chín là thực thi chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng gắn với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.

Mười là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong phát triển ngành năng lượng.

Gia Lai phát triển năng lượng tái tạo theo hướng bền vững

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh mới đây đã cùng đoàn công tác của Bộ Công Thương đã đến làm việc tại tỉnh Gia Lai để lắng nghe những chia sẻ cụ thể của lãnh đạo địa phương về tình hình phát triển công nghiệp, thương mại của tỉnh, cũng như tình hình triển khai các dự án năng lượng trên địa bàn tỉnh.

Đây là bước đi cụ thể và đầu tiên của Bộ Công Thương trong việc quán triệt và triển khai Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ngay sau khi Nghị quyết này mới được ban hành ngày 11/2/2020 vừa qua.

Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Gia Lai nhằm khảo sát thực tế để có đánh giá chính xác về quy hoạch, sử dụng năng lượng trên địa bàn tỉnh hiện tại và trong thời gian tới. Bộ trưởng khẳng định trong thời gian qua Gia Lai là tỉnh tạo điều kiện rất tốt cho các nhà đầu tư, kéo theo làn sóng đầu tư vào tỉnh mạnh mẽ trong 2 năm qua, điều này cũng phản ánh những quyết định, chính sách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đi vào cuộc sống.

Gia Lai có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo

Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Võ Ngọc Thành cho biết, Gia Lai là một tỉnh nghèo của cả nước, cơ sở hạ tầng và điều kiện giao thương khó khăn hơn so với các địa phương khác. Tỉnh xác định tiềm năng lớn nhất là nông nghiệp và năng lượng tái tạo. “Thủy điện chúng tôi đang khai thác rất tốt. Bên cạnh đó, về năng lượng tái tạo, Gia Lai là một tỉnh có năng lượng gió rất tốt và ưu việt hơn miền Trung vì không có bão và không có xâm nhập mặn”, ông Thành cho biết. Theo dó, đại diện tỉnh Gia Lai hy vọng Bộ Công Thương xem xét và có sự ưu tiên tập trung về nguồn lực nhà nước, nhà đầu tư để tỉnh có thể phát triển mạnh năng lượng tái tạo.

Gia Lai có 3 dự án điện mặt trời với tổng công suất 138 MWp đã được Bộ Công Thương phê duyệt bổ sung vào Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh gồm: dự án điện mặt trời Krông Pa, công suất 49 MW (đã đóng điện vận hành ngày 12/11/2018), dự án điện mặt trời Chư Ngọc, công suất 40 MWp (chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 - 12,75 MW được đưa vào vận hành thương mại từ ngày 6/4/2019, giai đoạn 2 đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư) và dự án điện mặt trời Krông Pa 2, công suất 49 MWp (đang triển khai dự án đầu tư xây dựng công trình).

Hiện nay, có 10 dự án điện mặt trời trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã và đang trình các cấp thẩm định, phê duyệt với tổng công suất 632 MWp gồm: Plei Pai (300 MWp), Ia O (50 MWp), Chư Gru 1 (43,1 MWp), Vạn Phát (40 MWp, Phú Thiện (40 MWp), Ayun Pa (25 MWp), Chư Gru 2 (23,9 MWp), Trang Đức (49 MWp), Gia Lâm - Ia Srươm (49 MWp), Ia Srươm - Bitexco - Tô Na (12 MWp).

Về điện gió, trang trại phong điện HBRE Chư Prông, công suất 50 MW đã được bổ sung quy hoạch. Hiện nay, UBND tỉnh Gia Lai đã trình 56 dự án điện gió đề nghị bổ sung vào Quy hoạch phát triển điện lực với tổng quy mô công suất là 8.053 MW.

Bộ trưởng đánh giá, Gia Lai là một tỉnh năng động và rất có nỗ lực liên tục để cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là liên quan đến các dự án năng lượng. Tỉnh đã biến các chính sách, cơ chế thành nguồn lực phát triển, giúp Gia Lai từ một tỉnh rất nghèo đã trở thành một căn cứ địa quan trọng về điện. Chỉ riêng thủy điện đã có 49 dự án rất thành công và nhiều dự án điện mặt trời, điện gió trong tương lai, khẳng định vai trò quan trọng trong cung cấp điện cho quốc gia.

Ghi nhận những đóng góp của Gia Lai trong 2 năm qua đã bổ sung 5.000 MW cho lưới điện quốc gia, Bộ trưởng cũng chỉ ra những bất cập trong quá trình thực hiện các dự án điện mặt trời, điện gió đó là xung đột giữa lợi ích nhà đầu tư với phát triển xã hội; xung đột quy hoạch giữa dự án năng lượng sạch với các dự án khác.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định, Bộ sẽ tổng hợp các ý kiến, đề xuất của địa phương tại buổi làm việc, từ đó, tham mưu với Chính phủ về sửa đổi các quy định liên quan để tạo hành lang thông thoáng cho doanh nghiệp và địa phương cùng đầu tư phát triển năng lượng tái tạo theo hướng bền vững. Bộ trưởng cũng khẳng định sẽ dựa trên tình hình thực tế và nguồn lực hiện tại để phát triển các nguồn cung năng lượng theo hướng tăng cường khả năng tự chủ, đa dạng hóa, bảo đảm tính hiệu quả, tin cậy, bền vững.

Bình Định sắp có thêm 2 dự án điện gió tại khu kinh tế Nhơn Hội

UBND tỉnh Bình Định đã đồng ý chủ trương đầu tư dự án Nhà máy điện gió Nhơn Hội 1 và Nhà máy điện gió Nhơn Hội 2 nằm tại núi Phương Mai trong khu kinh tế Nhơn Hội do Công ty CP Đầu tư Fico làm chủ đầu tư.

Cụ thể, dự án Nhà máy điện gió Nhơn Hội 1 có công suất 30 MW, khảo sát, nghiên cứu đầu tư trên diện tích khoảng 175 ha, tổng vốn đầu tư hơn 1.321 tỷ đồng. Dự án Nhà máy điện gió Nhơn Hội 2 có công suất 30 MW, khảo sát nghiên cứu trên diện tích đất khoảng 201 ha, với tổng vốn đầu tư hơn 1.249 tỷ đồng.

Ảnh minh họa

Cả 2 dự án được đầu tư tại khu vực quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo - núi Phương Mai thuộc khu kinh tế Nhơn Hội. Thời gian hoạt động các dự án là 50 năm kể từ ngày UBND tỉnh Bình Định cấp quyết định chủ trương lần đầu. Tiến độ thực hiện hoàn thành 2 dự án điện gió dự kiến vào tháng 9/2021.

Khu kinh tế Nhơn Hội là địa bàn sớm được các nhà đầu tư quan tâm và đăng ký nhiều dự án điện gió vì đây là một trong những khu vực có tiềm năng điện gió lớn nhất nước. Tỉnh Bình Định cũng từng xác định lấy các dự án điện gió làm tiền đề để tạo bước đột phá trong phát triển năng lượng sạch.

PV