Năng lượng tái tạo

Phát triển năng lượng sạch và chủ trương, chính sách của Việt Nam

Thứ hai, 6/3/2023 | 14:42 GMT+7
Ngày 6/3, TS. Mai Duy Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Sạch Việt Nam có bài tham luận với chủ đề “Phát triển năng lượng sạch và chủ trương, chính sách của Việt Nam” tại hội thảo “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021: Thực trạng và giải pháp”.

Hội thảo do đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội tại Nhà Quốc hội. Tạp chí Năng lượng Sạch Việt Nam trân trọng giới thiệu bài tham luận của TS. Mai Duy Thiện.

TS. Mai Duy Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Sạch Việt Nam phát biểu tại hội thảo

1. Khái quát về xu hướng chuyển dịch năng lượng và đầu tư phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (NLTT) trên thế giới 

Chuyển dịch năng lượng mà trong đó các dạng năng lượng truyền thống như năng lượng hóa thạch gây ô nhiễm môi trường được thay thế dần bằng các các dạng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo đang là xu hướng chủ yếu và mạnh mẽ trong tiến trình phát triển năng lượng nói riêng và phát triển bền vững nói chung của các quốc gia hiện nay, đặc biệt là trong 5 năm gần đây.

Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), đầu tư vào năng lượng sạch toàn cầu đã cao hơn nhiều so với trước đây vào thời điểm Thỏa thuận chung Paris được ký kết vào năm 2015. Theo đó tốc độ tăng trưởng đầu tư hàng năm vào năng lượng sạch trung bình trong 5 năm sau thỏa thuận khí hậu Paris chỉ hơn 2%. Năm 2020, tỉ lệ đã tăng lên 12%, năm 2022 đầu tư cho năng lượng sạch dự kiến đạt 1400 tỷ USD chiếm gần 60% tổng đầu tư cho toàn ngành năng lượng. 

Tổng đầu tư toàn cầu cho chuyển đổi năng lượng tăng từ 250 tỷ USD năm 2010 lên 500 tỷ USD năm 2020 và đặc biệt là tới 755 tỷ USD (gấp hơn 3 lần 2010) vào năm 2021. Trong đó, năm 2021 đầu tư cho phát triển năng lượng tái tạo (chủ yếu là điện gió và điện mặt trời) đã thu hút được 366 tỷ USD cho dự án mới (chiếm khoảng 70% tổng đầu tư các dự án nguồn điện mới), nửa đầu năm 2022 đã có 226 tỷ USD đầu tư cho NLTT. Dự báo của IEA, đến năm 2025, NLTT sẽ trở thành nguồn sản xuất điện chính, cung cấp 1/3 lượng điện trên thế giới. Uớc tính, công suất điện gió và điện mặt trời sẽ vượt công suất của điện khí vào năm 2023 và nhiệt điện than vào năm 2024.

Như vậy chuyển đổi năng lượng và phát triển năng lượng sạch, NLTT đã là xu hướng chủ đạo trong phát triển năng lượng, phát triển nguồn điện và là tất yếu trong phát triển bền vững, phát triển xanh trên thế giới. 

2. Tiềm năng và tình hình đầu tư phát triển năng lượng sạch, NLTT tại Việt Nam

Việt Nam có tiềm năng lớn về NLTT, đặc biệt là năng lượng gió và năng lượng mặt trời. Nghiên cứu ban đầu của các cơ quan tư vấn có thể tóm tắt như sau:

Về tiềm năng điện gió trên bờ và gần bờ: tổng tiềm năng điện gió trên bờ khá lớn 221.000 MW, tuy nhiên chủ yếu là tiềm năng gió thấp (4,5 - 5,5 m/s) - khoảng 163.000 MW. Mặc dù chi phí đầu tư nguồn điên gió sẽ giảm trong tương lai, nhưng trong giai đoạn đến 2045, chỉ các khu vực gió cao (trên 6 m/s) và trung bình (5,5 - 6 m/s) mới có thể khả thi về mặt kinh tế. Tiềm năng này chủ yếu tập trung tại Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Đặc biệt ở khu vực Tây Nam Bộ, quy mô đăng ký các dự án điện gió ngoài khơi rất lớn. Các dự án này nằm ở khu vực có độ sâu đáy biển không lớn (nhỏ hơn 20 m), có tốc độ gió khoảng 6,5 m/s, chi phí đầu tư nằm giữa gió trên bờ và gió ngoài khơi, nên được coi là điện gió gần bờ. 

Tiềm năng điện gió ngoài khơi (offshore), khu vực có độ sâu đáy biển trên 20 m: tổng quy mô tiềm năng kỹ thuật của điện gió ngoài khơi khoảng 165.000 MW, khu vực gió cao và có tiềm năng kinh tế tốt chỉ nằm ở Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định) với tổng tiềm năng khoảng 80.000 MW (tốc độ gió trên 7 - 9 m/s), 

Tiềm năng điện mặt trời: tổng tiềm năng kỹ thuật của điện mặt trời rất lớn lên tới 914.000 MW (837.000 MW là tiềm năng mặt đất và 77.000 MW là tiềm năng mặt nước, tập trung chủ yếu tại miền Nam, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên). Tổng tiềm năng điện mặt trời mái nhà toàn quốc lên tới 48.000 MW, trong đó chủ yếu nằm ở khu vực miền Nam là khoảng 22.000 MW. 

Tiềm năng thủy điện: tiềm năng kinh tế - kỹ thuật thủy điện vừa và lớn tại Việt Nam khoảng 75 - 80 tỷ kWh, tương đương khoảng 23.000 - 25.000 MW công suất đặt. Về cơ bản tiềm năng nguồn thủy điện vừa và lớn đã được khai thác gần hết. Tổng công suất thủy điện vừa và lớn có thể đưa vào tiềm năng phát triển tăng thêm (kể cả các nhà máy mở rộng) là khoảng 5.500 MW. Về các nguồn thủy điện nhỏ tổng công suất có tiềm năng phát triển tăng thêm là khoảng 11.400 MW.

Nguồn sinh khối và NLTT khác: hiện tại điện sinh khối có khoảng 378 MW điện bã mía đang hoạt động cấp điện đồng phát cho các nhà máy đường đồng thời phát điện lên lưới, khoảng 100 MW điện trấu và khoảng 70 MW điện gỗ đang ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Quy mô tiềm năng phát triển của điện sinh khối khoảng 5.000 – 6.000 MW, nguồn rác thải khoảng 1.700 MW, nguồn địa nhiệt 460 MW. Các loại hình NLTT còn lại như khí sinh học, sóng biển, thủy triều, hải lưu… hiện nay đều trong giai đoạn nghiên cứu.

Trong những năm vừa qua, đặc biệt là 4 - 5 năm gần đây, đầu tư cho NLTT (gió, mặt trời) ở nước ta phát triển vượt bậc, tính đến thời điểm hiện tại, tổng công suất các nhà máy điện NLTT và thủy điện vừa và lớn đạt 43.126 MW, chiếm 55,2% tổng công suất hệ thống điện của Việt Nam (78.121 MW), trong đó điện gió 4.126 MW, điện mặt trời mái nhà 7.660 MW, điện mặt trời trang trại 8.904 MW, thủy điện 22.111MW, điện sinh khối 325 MW. Hệ thống điện Việt Nam có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Về điện mặt trời, Việt Nam đứng trong top 10 quốc gia có công suất lắp đặt điện mặt trời cao nhất.

3. Chủ trương chính sách phát triển năng lượng sạch, NLTT và phát triển bền vững của Việt Nam

Giai đoạn đến 2050, hệ thống năng lượng/hệ thống điện Việt Nam sẽ trải qua một quá trình chuyển đổi cơ bản về cơ cấu nguồn, từ chỗ chủ yếu dựa vào nguồn nhiên liệu hóa thạch chuyển sang nguồn năng lượng sạch, NLTT, sử dụng hiệu quả năng lượng. Theo đó, trọng tâm chuyển đổi của hệ thống điện Việt Nam bao gồm: điện sạch sẽ là nguồn năng lượng chính, khai thác tối đa điện từ NLTT. 

Để thực hiện hóa được chiến lược phát triển năng lượng sạch/NLTT, thời gian qua, Việt Nam đã ưu tiên đầu tư và sử dụng NLTT, đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc phát triển và sử dụng NLTT.

Với quan điểm phát triển xanh, bền vững, nguồn NLTT trong đó năng lượng gió, mặt trời trong những thập kỷ tới sẽ là nguồn năng lượng cơ bản của hệ thống năng lượng/hệ thống điện và góp phần trọng yếu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Chính vì vậy, phát triển NLTT là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã được cụ thể hóa tại Nghị quyết của Bộ Chính trị đến các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển NLTT và các cơ chế khuyến khích phát triển các dự án NLTT. Tại Hội nghị COP26, COP27 vừa qua diễn ra tại Vương quốc Anh và Ai Cập, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định và cam kết rất mạnh mẽ đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch là định hướng quan trọng của Việt Nam hướng tới nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh trong những thập kỷ tới. 

Những chủ trương, chiến lược phát triển NLTT đã được xác định từ sớm: phát triển thủy điện từ những năm 2000, phát triển điện gió từ sau 2010, năm 2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 phê duyệt Chiến lược phát triển NLTT của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặc biệt là Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 55 - NQ/TW (Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 2/10/2020)… đã huy động được nhiều nguồn lực của các thành phần kinh tế để phát triển NLTT và đã đạt được những kết quả vượt bậc, đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh năng lượng, đưa Việt Nam đứng đầu Đông nam Á về phát triển NLTT.

Chủ trương phát triển NLTT là cần ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn NLTT, xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn NLTT nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hóa thạch. Ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy điện sử dụng rác thải đô thị, sinh khối và chất thải rắn đi đôi với công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn… 

Đối với điện gió và điện mặt trời: ưu tiên phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp lý. Khuyến khích phát triển điện mặt trời áp mái và trên mặt nước. Xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam. Mục tiêu trong Chiến lược phát triển NLTT là tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ năng lượng tái tạo trong tổng điện năng sản xuất toàn quốc tăng từ khoảng 35% vào năm 2015 tăng lên khoảng 38% vào năm 2020; đạt khoảng 32% vào năm 2030 và khoảng 43% vào năm 2050… 

Trong thời gian qua từ 2017 - 2022, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định về cơ chế khuyến khích phát triển điện gió, điện sinh khối, điện từ chất thải rắn và điện mặt trời...

Bên cạnh đó, đầu tư vào phát triển NLTT được hưởng ưu đãi đầu tư theo pháp luật về đầu tư và được ưu đãi thuế trong 15 năm.

Để có cơ sở đầu tư, phát triển trong thời gian tới, Chính phủ đang chỉ đạo hoàn thiện Quy hoạch điện lực quốc gia (Quy hoạch điện VIII) để phê duyệt. Theo đó, hệ thống điện Việt Nam sẽ phát triển theo hướng xanh, bền vững, phù hợp với các cam kết tại COP26 đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và việc phát phát triển điện từ gió, mặt trời tiếp tục được khai thác tối đa, hiệu quả với giá hợp lý. Cơ chế đối với các dự án NLTT chuyển tiếp cũng đang được đề xuất xem xét. Theo dự thảo Quy hoạch điện VIII, hàng chục ngàn MW nhiệt điện than được đề nghị loại khỏi quy hoạch, với phương án điều hành, phụ tải cao và chuyển đổi năng lượng, đến năm 2045 tỷ lệ điện gió và điện mặt trời chiếm khoảng 50% tổng công suất toàn hệ thống. 

Từ các cam kết tại COP26, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo các Bộ, ngành thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh. Một loạt các chương trình, đề án xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phát triển NLTT dưới đây đang được chỉ đạo thực hiện, nghiên cứu trong thời gian tới:

- Sửa đổi Luật Điện lực.

- Nghiên cứu xây dựng Luật về năng lượng tái tạo, hoàn thiện các cơ chế khuyến khích phát triển NLTT theo hướng minh bạch và ổn định (khung chính sách, quy định về cắt giảm công suất…).

- Quy hoạch tổng thể về năng lượng phù hợp với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.

- Quy hoạch Điện lực quốc gia phù hợp với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính tiến tới loại bỏ nhiệt điện than trước năm 2040.

- Xây dựng quy định, chế tài hàng năm đối với việc áp dụng tiêu chuẩn tỷ lệ NLTT (renewable portfolio Standard) cho các đơn vị sản xuất điện, phân phối điện phù hợp với mục tiêu giảm phát thải

- Hoàn thiện các thị trường năng lượng cạnh tranh, xây dựng cơ chế giá hiệu quả, hoàn thiện cơ chế dịch vụ phụ trợ và lưu trữ năng lượng.

- Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế quản lý vận hành thị trường điện phù hợp với bối cảnh tỷ trọng các nguồn điện từ NLTT trong hệ thống tăng cao.

- Hoàn thiện các quy định trong Luật Điện lực, khung pháp lý cho phép các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào hạ tầng truyền tải.

- Hoàn thiện các chương trình Quản lý nhu cầu (DSM) và Điều chỉnh phụ tải điện (DR) phù hợp với xu hướng tích hợp NLTT vào hệ thống điện. 

- Hoàn thiện các quy định về giao dịch, mua bán các dịch vụ phụ trợ trong thị trường điện, tăng cường khả năng tích hợp các nguồn NLTT của hệ thống điện, xây dựng bộ tiêu chuẩn kỹ thuật cho các loại hình nguồn điện hiện có và dự kiến xây mới để đảm bảo nâng cao độ linh hoạt và giảm tác động môi trường.

- Hoàn thiện, áp dụng Cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) góp phần thúc đẩy phát triển các nguồn điện NLTT.

- Nghiên cứu, đề xuất cơ chế đấu thầu, đấu giá cung cấp năng lượng phù hợp, đặc biệt trong các dự án đầu tư NLTT, năng lượng mới.

Như vậy, từ chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, xu hướng chuyển đổi năng lượng và phát triển NLTT tại Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh và tập trung phát triển trong thời gian tới.

4. Một số kiến nghị

- Đề nghị sớm phê duyệt Quy hoạch điện VIII, Chiến lược, quy hoạch năng lượng.

- Cần xây dựng giá mua điện hợp lý trên cơ sở tính toán khoa học, hài hòa giữa bên bán và bên mua điện (bên bán là các nhà đầu tư, bên mua là EVN). 

- Các quy hoạch liên quan đến điện gió ngoài khơi cần triển khai khẩn trương để có thể hoàn thành phê duyệt sớm.

- Cơ chế, chính sách cho phát triển NLTT cần được xây dựng có tính liên tục và dài hạn hơn, đủ để các nhà đầu tư định hướng đầu tư phát triển các dự án.

- Nghiên cứu quy định về điện mặt trời áp mái tự dùng không nối lưới tại các khu công nghiệp.

- Ban hành đồng bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn về NLTT.

- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các thuỷ điện tích năng, nghiên cứu hệ thống lưu trữ điện năng, để tạo cơ hội cho phát triển điện gió và mặt trời, vận hành an toàn ổn định hệ thống điện.

- Sớm ban hành quyết định cơ chế thí điểm mua bán điện trực tiếp DPPA.

- Cùng với kế hoạch phát triển NLTT, cần xây dựng cơ chế để thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp cơ khí chế tạo để sản xuất chuỗi sản phẩm thiết bị NLTT tại Việt Nam.

TS. Mai Duy Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Sạch Việt Nam