Ngày 21/10, hội thảo “Biến rác thải thành năng lượng sạch - Giải pháp cho phát triển bền vững” diễn ra tại TPHCM. Hội thảo do báo Người Lao Động phối hợp cùng các đơn vị liên quan tổ chức.
Phát biểu tại hội thảo, TS. Phạm Viết Thuận, Viện trưởng Viện kinh tế tài nguyên và môi trường TP HCM nhấn mạnh, nếu biết biến rác thành năng lượng thì không chỉ giảm ô nhiễm mà còn tạo ra nguồn năng lượng tái tạo, thân thiện với môi trường, góp phần vào mục tiêu phát thải ròng bằng 0 – Net Zero 2050 mà Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị COP26.
TPHCM hiện là trung tâm kinh tế – xã hội lớn nhất cả nước, với gần 14 triệu dân, tạo ra trung bình 13.000 – 14.000 tấn rác thải sinh hoạt mỗi ngày. Tốc độ đô thị hóa, tăng dân số cơ học và mở rộng khu công nghiệp khiến lượng rác tăng trung bình 6 – 8% mỗi năm. Dù vậy, 85% rác vẫn được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, chủ yếu tại hai khu vực lớn: Đa Phước (huyện Bình Chánh cũ) và Phước Hiệp (huyện Củ Chi cũ), tỉnh Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu cũ.
Tuy nhiên, phương pháp này đang tiêu tốn diện tích đất khổng lồ với khoảng 300ha cho mỗi bãi rác, gây phát sinh khí CH4 (metan) – loại khí có hiệu ứng nhà kính gấp 28 lần CO2. Ngoài ra, nước rỉ rác thấm xuống đất, ô nhiễm nguồn nước ngầm, tạo mùi hôi kéo dài hàng chục năm.
TPHCM đã có 5 dự án đốt rác phát điện được cấp phép với tổng công suất thiết kế hơn 340 MW, song phần lớn vẫn chưa thực hiện được do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân chính là thủ tục đầu tư, quy hoạch, cơ chế giá điện và công nghệ siêu giới hạn quá cao.

Hội thảo “Biến rác thải thành năng lượng sạch - Giải pháp cho phát triển bền vững”
Theo ông Phạm Viết Thuận, cần xây dựng "Hệ sinh thái kinh tế tuần hoàn rác thải" – liên kết nhà nước, doanh nghiệp, khoa học và cộng đồng. Hai là hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế, giá điện, tín dụng xanh cho các dự án đốt rác phát điện. Ba là phát triển chuỗi công nghiệp hỗ trợ WtE – từ thu gom, vận chuyển, phân loại, đến tái chế tro xỉ. Cuối cùng là tăng cường truyền thông – giáo dục cộng đồng, biến phân loại rác thành hành vi văn minh đô thị.
Ông Phạm Viết Thuận cho rằng, rác thải không là gánh nặng mà là nguồn tài nguyên chiến lược cho một nền kinh tế xanh. Nếu biết quy hoạch và đầu tư đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể biến thách thức môi trường thành cơ hội năng lượng.
PGS. TS Phùng Chí Sỹ, Phó Chủ tịch Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam cho biết, trong 20 năm gần đây, tại Việt Nam có khoảng 20 dự án đầu tư nhà máy đốt rác phát điện đã và đang được triển khai.
Các dự án xử lý chất thải rắn thành năng lượng (Waste to Energy – WtE) gặp nhiều khó khăn về công nghệ và kỹ thuật, hiệu quả kinh tế thấp, chỉ đạt khoảng 20 - 25%, kém hơn nhiều so với đầu tư nhà máy nhiệt điện than hay khí hóa lỏng thông thường (hiệu quả đạt từ 40 - 42%). Chi phí đầu tư nhà máy điện rác lớn và thời gian thu hồi vốn lại kéo dài, thường từ 10 - 20 năm.
Theo ông Phùng Chí Sỹ, cơ sở pháp lý về đốt rác phát điện còn mang tính định hướng chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể, nhiều nội dung còn chồng chéo tại các luật, nghị định khác nhau.
Thông tư số 32/2015/TT-BCT quy định các dự án đốt rác phát điện được bán toàn bộ sản lượng điện cho ngành điện nhưng giá mua điện tại Việt Nam chưa có hành lang pháp lý rõ ràng, mới chỉ áp dụng đối với các dự án phát điện từ đốt chất thải rắn trực tiếp và các dự án phát điện đốt khí thu hồi từ bãi chôn lấp chất thải. Trong khi đó, hiện có nhiều công nghệ mới trong lĩnh vực điện rác như: khí hóa phát điện, lên men tạo khí biogas phát điện, đốt plasma phát điện... chưa được quy định rõ ràng, đầy đủ về giá mua điện.
Chúng ta cũng chưa có hướng dẫn về giá xử lý chất thải rắn áp dụng cho công nghệ điện rác và chưa có bộ tiêu chí phục vụ thẩm định, đánh giá, công bố công nghệ xử lý chất thải rắn phát điện.

Thành phố Hà Nội vừa tổ chức khánh thành Nhà máy điện rác Sóc Sơn, nhà máy điện rác lớn nhất Đông Nam Á và lớn thứ hai thế giới
Về giải pháp trong thời gian tới, ông Phùng Chí Sỹ đề xuất ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích WtE.
Theo đó, Nhà nước phải xây dựng một hành lang pháp lý rõ ràng, phù hợp, cụ thể hóa cơ chế chính sách để phát triển công nghệ điện rác, bao gồm những chính sách về quy hoạch đầu tư, giá mua điện, tiêu chuẩn thẩm định kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật; bổ sung, hoàn thiện định mức kinh tế - kỹ thuật về WtE thu gom, vận chuyển, xử lý và đặc biệt là phân loại chất thải rắn tại nguồn (Thông tư số 36/2024/TT-BTNMT mới chỉ ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với công nghệ đốt chất thải rắn bằng công nghệ đốt 2 cấp trên ghi cố định).
Cần hỗ trợ các dự án WtE việc lựa chọn công nghệ tiên tiến và kỹ thuật phù hợp với điều kiện Việt Nam. Lựa chọn công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện rác thải và khí hậu ở nước ta, làm sao vừa đảm bảo xử lý được rác thải phát điện vừa không làm phát sinh các loại chất thải độc hại ra môi trường.
Chuyên gia này nhấn mạnh, cần có các đề tài hoặc chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ chuyên về lựa chọn công nghệ đốt rác phát điện phù hợp với điều kiện nước ta trên cơ sở nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế. Cùng với đó, có cơ chế chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tự chủ sản xuất chế tạo được các trang thiết bị công nghệ WtE vì trang thiết bị sản xuất ở trong nước sẽ phù hợp hơn với đặc điểm điều kiện Việt Nam và giá đầu tư thấp hơn, đồng thời còn tạo ra điều kiện bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế công nghệ sản xuất nhanh chóng, chủ động, dễ dàng hơn nhập ngoại.
Theo tính toán, nếu Việt Nam nội địa hóa thành công trang thiết bị đốt rác phát điện thì có thể giảm thiểu vốn đầu tư khoảng 20 - 30%, bảo đảm thời gian hoàn vốn chỉ còn khoảng 5 - 7 năm.
PGS.TS Bùi Thị An, Viện trưởng viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn kinh tế Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội nhìn nhận, xử lý rác thải thành năng lượng sạch là vấn đề không khó mà cũng không dễ và mang tính thời sự, cần tiếp tục giải quyết các tồn tại.
Bà đề nghị, Nhà nước cần có cơ chế ưu đãi thuế, tín dụng xanh và đảm bảo nguồn rác đầu vào ổn định cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cơ chế giá cũng phải tách rõ giá dịch vụ xử lý rác, giá sản xuất điện; bảo đảm điều kiện môi trường.