Nâng mức hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ và phát triển rừng

Thứ sáu, 24/5/2024 | 11:42 GMT+7
Ngày 24/5,Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 58/2024/NĐ-CP điều chỉnh một số mức đầu tư, hỗ trợ một số hoạt động về bảo vệ và phát triển rừng so với chính sách đầu tư hiện hành.

Việc nâng mức đầu tư, hỗ trợ hoạt động bảo vệ và phát triển rừng giúp tạo nguồn lực bền vững cho người dân tham gia giữ rừng, phát huy đa giá trị của hệ sinh thái rừng.

Theo Nghị định, mức hỗ trợ bảo vệ rừng, khoán bảo vệ rừng bình quân được nâng lên thành 500.000 đồng/ha/năm, tăng 200.000 đồng/ha/năm so mức hỗ trợ tại chính sách hiện hành.

Mức hỗ trợ bảo vệ rừng bình quân là 150.000 đồng/ha/năm/tổng diện tích được giao đối với ban quản lý rừng đặc dụng, tăng 50.000 đồng/ha/năm so mức hiện tại. Với xã khu vực II, III, mức hỗ trợ bằng 1,2 lần; vùng đất ven biển bằng 1,5 lần mức bình quân.

Mức đầu tư trồng rừng, nuôi dưỡng rừng tự nhiên, làm giàu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ theo định mức kinh tế kỹ thuật, thiết kế, dự toán công trình lâm sinh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Hiện mức đầu tư hiện tại là 30 triệu đồng/ha cho trồng rừng. 

Đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ và phát triển rừng

Về công tác khoán bảo vệ diện tích rừng, ưu tiên khu vực tiếp giáp khu dân cư cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng tại địa phương, đặc biệt là các xã khu vực II, III; diện tích tiếp giáp với khu vực có nguy cơ cao về xâm hại tài nguyên rừng. Điều kiện và hạn mức khoán bảo vệ rừng được thực hiện theo quy định tại Điều 4 và khoản 2 Điều 6 Nghị định số 168/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Về trình tự thực hiện, căn cứ dự toán kinh phí quản lý bảo vệ rừng hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định mức cấp kinh phí cụ thể cho từng ban quản lý rừng trực thuộc Bộ; Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định mức cấp kinh phí cụ thể cho từng ban quản lý rừng tại địa phương. Phương thức hỗ trợ cụ thể dựa trên kết quả bảo vệ rừng giữa chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với UBND cấp xã. Thời hạn thực hiện theo năm, hoặc theo kế hoạch trung hạn 3 năm, 5 năm.

Trong đó, định kỳ mỗi năm, UBND cấp xã cùng với kiểm lâm địa bàn có trách nhiệm nghiệm thu, đánh giá kết quả thực hiện bảo vệ rừng đối với từng đối tượng nhận hỗ trợ. Trường hợp bên nhận hỗ trợ bảo vệ rừng để xảy ra mất rừng, phá rừng hoặc không thực hiện theo thiết kế được duyệt thì lập biên bản xác định diện tích rừng đã mất hoặc bị suy giảm, xác định rõ nguyên nhân và xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.

Nghị định số 58/2024/NĐ-CP nêu, trước ngày 30/6 hàng năm, UBND cấp xã xây dựng kế hoạch, dự toán kinh phí bảo vệ rừng đối với diện tích rừng chưa giao, chưa cho thuê năm sau và đưa vào trong dự toán kinh phí ngân sách xã cùng năm, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, phân bổ kinh phí hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí sự nghiệp.

Phương An (T/H)