Nghiên cứu chuyển dẫn, điều tiết cấp nước đảm bảo nhu cầu sử dụng trong tương lai

Thứ ba, 31/8/2021 | 15:45 GMT+7
Trước những tác động của biến đổi khí hậu và phát triển các ngành kinh tế, cần có nhiều dự án chuyển nước, điều phối nguồn nước ở nước ta để đảm bảo không thiếu hụt, cạn kiệt nguồn nước.

Thống kê cho thấy, đến năm 2018, thế giới đã có 34 siêu dự án chuyển nước với tổng chiều dài 13.049km và khoảng cách chuyển nước trung bình là 358km. Trong tương lai, sẽ có 76 dự án lớn khác với tổng chiều dài 80.396km và khoảng cách chuyển nước trung bình là 482km. 

Hầu hết các siêu dự án chuyển nước đều hướng đến đa mục tiêu như phát triển nông nghiệp kết hợp cấp nước cho khu công nghiệp. Hàng năm, nhu cầu nước tưới cho nông nghiệp chiếm đến 70% (tương ứng 2.710 tỷ m3), nguồn nước chủ yếu đến từ việc khai thác nước mặt (bằng công trình thủy lợi) và các tầng nước ngầm (giếng đào). Hạn hán, thiếu nước là những yếu tố chính dẫn đến suy thoái đất và giảm năng suất của các loại cây trồng.

Ở Việt Nam, nắng nóng và thiếu hụt lượng mưa trong thời gian dài đã khiến mực nước trên các sông xuống thấp, mực nước một số hồ chứa ở dưới mực nước chết, gây ra tình trạng hạn hán và thiếu nước thường xuyên ở miền Trung và Tây Nguyên, khan hiếm nước ở các vùng miền núi, ven biển... xâm nhập mặn nghiêm trọng ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Theo nghiên cứu của Viện Quy hoạch thủy lợi, dự báo đến năm 2030, để cung cấp đủ nước cho dân sinh và các ngành kinh tế theo các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu chủ động ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu… Việt Nam cần từ 98 – 116 tỷ m3 nước và đến năm 2050 cần từ 106 – 131 tỷ m3 nước. Với khả năng chuyển dẫn, điều tiết cấp nước hiện có, Việt Nam sẽ thiếu từ 8,5 – 12,7 tỷ m3 nước năm 2030 và thiếu từ 10,7 – 16,7 tỷ m3 năm 2050.

Cần có những dự án điều tiết nước phù hợp để đảm bảo cấp nước đầy đủ cho người dân

Theo Ủy hội sông Mê Công, các quốc gia thuộc lưu vực sông Mê Công đã hoàn thành và tiếp tục xây dựng nhiều hồ chứa thủy điện, thủy lợi trên cả dòng chính và dòng nhánh với tổng dung tích trữ lên đến hàng chục tỷ m3 nước (tương đương 20% tổng lượng dòng chảy), cùng với đó là kế hoạch cấp nước để tăng diện tích tưới và chuyển nước ra ngoài lưu vực.

Trường hợp các quốc gia thượng nguồn không thống nhất cơ chế chia sẻ và sử dụng hợp lý nguồn nước trên các dòng sông liên quốc gia thì Việt Nam chắc chắn phải đối mặt với nguy cơ khan hiếm nước, có khả năng sẽ xảy ra khủng hoảng nước, đe dọa đến sự phát triển ổn định về kinh tế, xã hội và an ninh lương thực của toàn vùng đồng bằng. Như vậy, ngoài những khu vực hạn hán, thiếu nước như Trung Bộ và Tây Nguyên, trong tương lai gần, Việt Nam sẽ phải giải quyết các vấn đề tương tự cho khu vực ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng.

Miền Trung Việt Nam có địa hình chủ yếu dốc theo hướng từ Tây sang Đông, thuận lợi để tạo các trục liên kết nguồn nước dọc theo sườn vùng núi phía Tây, cấp nước cho các vùng có tiềm năng phát triển kinh tế ven đường Hồ Chí Minh và khu vực ven biển.

Nhìn tổng thể trên phạm vi cả nước, lợi dụng địa hình trên có thể tính đến phương án chuyển nước từ các kho nước lớn ở khu vực phía Bắc, Trung Bộ, nơi có lượng mưa và nguồn nước khá dồi dào để điều hòa vào các vùng thiếu nước ở Trung Bộ, Tây Nguyên bằng hệ thống liên hoàn các công trình thủy lợi như trạm bơm, đường ống, đường hầm, kênh dẫn, hồ chứa theo cách mà các quốc gia như Trung Quốc, Israel, Mỹ… đã làm. Sau đó kết nối với nguồn nước sẵn có của khu vực ĐBSCL, vùng Đông Nam Bộ tiến tới hình thành một mạng lưới chuyển nước xuyên quốc gia dọc trục Bắc – Nam.

Mạng lưới chuyển nước xuyên quốc gia của Việt Nam lấy các điểm kết nối chính là những hồ chứa nước có dung tích lớn của từng tỉnh, từng khu vực nằm ở sát sườn phía núi phía Tây của đất nước. Các hồ chứa này ngoài chức năng đảm bảo tích trữ, cân đối, điều hòa nguồn nước giữa các mùa, vùng, lưu vực sông của riêng từng vùng còn phải đảm bảo dung tích tăng thêm phục vụ nhiệm vụ chuyển nước. Dọc trục chuyển nước cần nghiên cứu quản lý, khai thác sử dụng cũng như phương án bổ sung lượng nước cần thiết từ các sông, hồ chứa khác để bảo đảm lưu lượng vận chuyển không bị thiếu hụt, ngắt quãng, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho các vùng, miền trên cả nước.

Xây dựng mạng lưới chuyển nước xuyên quốc gia là một quá trình dài hạn với các mục tiêu liên thế hệ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, vì lợi ích hiện tại và tương lai của đất nước, đặc biệt khi biến đổi khí hậu đang là mối đe dọa nghiêm trọng về hạn hán, thiếu nước đối với các khu vực miền Trung, Tây Nguyên và ĐBSCL.

Ngọc Mai (T/H)