Năng lượng phát triển

Tây Nguyên: Nguồn lực - nhận diện và phát huy

Thứ sáu, 7/11/2025 | 14:45 GMT+7
Sáp nhập các tỉnh vùng Tây Nguyên cũ với các địa phương vùng duyên hải mở ra việc tái cấu trúc không gian phát triển, điều phối nguồn lực và bảo đảm phát triển bền vững của địa phương. Từ “vùng Tây Nguyên” chuyển thành “khu vực Tây Nguyên” trong không gian vùng Nam Trung Bộ là bước ngoặt phát triển mới, đòi hỏi những nguồn lực mới và cách tiếp cận mới để thúc đẩy sự phát triển các địa phương khu vực Tây Nguyên.

“Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội khu vực Tây Nguyên: Nhận diện và phát huy” là chủ đề Hội thảo khoa học quốc gia do Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên tổ chức, diễn ra ngày 07/11 tại phường Lâm Viên-Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng với sự tham gia đông đảo của các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp…

Toàn cảnh Hội thảo khoa học

Tham gia chủ trì Hội thảo, TS. Nguyễn Duy Thụy-Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên phát biểu: “Phát triển bền vững các địa phương khu vực Tây Nguyên là một sự nghiệp lớn với vô vàn thách thức, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi có sự chung tay về công sức, trí tuệ và tâm huyết của các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp”.

Khu vực có rất nhiều tiềm năng của những dư địa lớn

Hội thảo đã nhận được 118 tham luận, với cách tiếp cận đa chiều, đã phân tích toàn diện các khía cạnh tự nhiên – kinh tế - văn hóa – xã hội – thể chế các địa phương khu vực Tây Nguyên, hoặc tiếp cận trường hợp cụ thể đối với từng nguồn lực, cách thức khai thác nguồn lực. Qua quá trình phản biện nghiêm túc, khoa học; Ban Tổ chức đã lựa chọn 60 tham luận có chất lương, có tính mới, nội dung gắn liền chủ đề hội thảo. Tại Hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận làm rõ 02 chủ đề chính: (1) Nhận diện nguồn lực nguồn lực khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh sắp xếp lại đơn vị hành chính hiện nay; (2) Cách thức phát huy các nguồn lực khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh sắp xếp lại đơn vị hành chính hiện nay.

Chủ trì Hội thảo 

Nguồn lực được nhìn nhận như một hệ thống mở, có khả năng thích ứng và phát triển, chứ không chỉ là tập hợp đơn thuần các yếu tố đầu vào tĩnh. Những yếu tố có thể được nhìn nhận là nguồn lực phát triển của Tây Nguyên trong bối cảnh mới. Trong đó, nguồn lực nội sinh bao gồm: Tài nguyên thiên nhiên; Vốn con người và văn hóa;  Hệ thống thể chế và tổ chức địa phương. Mặt khác, vấn đề cần phân tích, nghiên cứu còn ở các khía cạnh như:  Cơ chế tích tụ và chuyển hóa nguồn lực qua các giai đoạn phát triển; Năng lực khai thác, tái tạo và lan tỏa giá trị của nguồn lực trong bối cảnh mới – bối cảnh kỷ nguyên vươn mình dân tộc với thời kỳ cách mạng công nghệ 4.0 của nhân loại.

Ở chủ đề thứ 2, Hội thảo đi sâu phân tích, kiến giải các vấn đề như tính Hiệu quả của các biện pháp đòi hỏi phải có cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý rõ ràng, cùng lộ trình triển khai phù hợp với các bên liên quan. Việc đánh giá khả năng phát huy các nguồn lực đòi hỏi phải xem xét toàn diện các yếu tố thể chế, công nghệ và nguồn nhân lực trong bối cảnh tái cơ cấu hành chính. Đối với nguồn nhân lực, cần tập trung nâng cao chất lượng thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu, gắn kết với nhu cầu phát triển của vùng. xây dựng lộ trình triển khai cụ thể với sự tham gia của tất cả các bên liên quan, từ chính quyền các cấp, doanh nghiệp đến cộng đồng địa phương.

Các đại biểu tham gia Hội thảo

Khu vực Tây Nguyên bao gồm 4 tỉnh mới Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắc và Lâm Đồng sáp nhập từ 9 tỉnh cũ: Kon Tum, Quảng Ngãi, Gia Lai, Bình Định, Đắk Lắk, Phú Yên, Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình Thuận. Tổng diện tích tự nhiên là khoảng 79.700 km² (chiếm gần ¼ lãnh thổ Việt Nam); tổng dân số là hơn 11,4 triệu người (chiếm gần 11,5% dân số cả nước). Đây là vùng có quy mô lãnh thổ lớn nhất cả nước, giàu tài nguyên, đa dạng sinh thái và tiềm năng du lịch – nông nghiệp – năng lượng tái tạo bậc nhất Việt Nam.  

Nhận diện những nguồn lực để phát huy phát triển bứt phá

Nhìn nhận chung về Khu vực Tây Nguyên, các tham luận tập trung phân tích những vấn đề gắn với tiềm năng và thế mạnh của mỗi địa phương trước khi sáp nhập như: Đắk Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Quảng Ngãi, Phú Yên…Các tham luận khác lại đi sâu đến các lĩnh vực kinh tế-xã hội trong mối quan hệ thực tiễn của khu vực Tây Nguyên như: nguồn lực nhân văn; nguồn lực kinh tế số, thiết chế văn hóa; các hệ giá trị của văn hóa truyền thống đồng bào dân tộc thiểu số; giáo dục đào tạo; xây dựng đội ngũ; tôn giáo; logstics và du lịch xanh; chuyển đổi số;  danh thắng và di sản; du lịch; nông nghiệp tích hợp đa giá trị…

Các đại biểu tham gia Hội thảo 

Nhiều thông tin từ các tham luận gợi mở cho triển khai chiến lược phát triển kinh tế-xã hội khu vực Tây Nguyên được các tác giả cho biết. Về đề tài công nghiệp, tác giả TS. Phan Thị Sông Thương (Viện Khoa học xã hội vùng Trung bộ và Tây Nguyên) cho biết về tài nguyên khoáng sản toàn khu vực Tây Nguyên hiện có hơn 50 loại khoáng sản thuộc 3 nhóm lớn gồm kim loại, không kim loại và vật liệu xây dựng. Trong đó, bôxit là khoáng sản có trữ lượng lớn nhất, khoảng 3,05 tỷ tấn, chiếm 91,4% trữ lượng bôxit trên cả nước. Ngoài bôxit, Tây Nguyên có trữ lượng lớn quặng vàng, vật liệu xây dựng, đá quý, than bùn, than nâu và một số kim loại màu nặng…Tác giả dẫn số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên thu hút được 170 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 1,87 tỷ USD, tương ứng chỉ chiếm 0,43% tổng số dự án và 0,59% tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam năm 2023 (Linh Đan, 2024). Khu vực Tây Nguyên mới chỉ dừng ở mức thu hút các dự án FDI quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu gắn với nông sản và alumin, chưa có dự án công nghệ cao (Tổng cục Thống kê, 2024).

Những lợi thế cụ thể và các điểm nghẽn cần tháo gỡ

Những điểm nghẽn và vấn đề đặt ra cho phát triển các khu công nghiệp Tây Nguyên đó là: hạ tầng kỹ thuật thiếu đồng bộ; thu hút nhà đầu tư vào KCN trên địa bàn vùng còn hạn chế; chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực giỏi, có trình độ chuyên môn chuyên ngành kỹ thuật; liên kết vùng trong phát triển các KCN còn hạn chế.

Một số giải pháp sau cần được tập trung triển khai là: Tập trung triển khai công tác quy hoạch, định hình chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển các KCN; Chủ động, tích cực thu hút đầu tư các dự án vào các KCN theo đúng định hướng quy hoạch mới; đẩy mạnh triển khai hiệu quả phát triển cơ sở hạ tầng các KCN để thu hút các nhà đầu tư lớn; nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; phát triển công nghiệp bền vững, bao trùm; phát triển các KCN theo hướng đẩy mạnh liên kết vùng, nội vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng.

Các đại biểu tham gia Hội thảo 

Phát huy nguồn lực nhân văn để tạo động lực phát triển khu vực, theo TS. Nghiên cứu viên cao cấp Nguyễn Duy Thụy (Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương; Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên), phát triển nguồn nhân lực Tây Nguyên dựa trên các giá trị và nguồn lực nhân văn, trước hết là xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao mà tiêu biểu là đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số. Phát huy nguồn lực nhân văn trong lĩnh vực phát triển kinh tế bao gồm: kinh tế du lịch sinh thái - văn hóa; kinh tế di sản; kinh tế nghi lễ. Đó còn là phát huy, ứng dụng trong các dự án phát triển, trong lĩnh vực phát triển giáo dục, trong lĩnh vực phát triển giới, trong lĩnh vực phát triển thể chế, trong lĩnh vực tôn giáo, trong lĩnh vực văn hóa-nghệ thuật và trong lĩnh vực phát triển đô thị, hình thành chuỗi đô thị động lực mang bản sắc văn hóa Tây Nguyên…

Các đại biểu tham gia Hội thảo 

Ở phương diện cụ thể hơn, bàn về kinh tế di sản nghi lễ, TS. Hà Hữu Nga (Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn về Phát triển (DRCC) cho rằng: “Kinh tế nghi lễ Tây Nguyên truyền thống chứa đựng toàn bộ nội hàm nghi lễ với tư cách là khuôn khổ của các giao tiếp chuẩn mực, sùng kính của các cộng đồng địa phương với hai hệ thống tác nhân chủ yếu là hệ thống các tác nhân con người gồm bản thân, gia đình, cộng đồng, với người khác, gia đình khác, cộng đồng khác; và với hệ thống tác nhân phi-nhân gồm môi trường, các sinh vật khác, thế giới khác bằng mối quan hệ với cái khan hiếm mang đậm sắc thái vật linh luận”. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, “chính cái bản chất ban sơ ấy lại trở thành một nguồn di sản vô giá không chỉ đem đến cho các xã hội hiện đại những bài học quý báu về một phương thức sống bền vững nhờ vào phương thức thương thảo đậm chất nghi lễ giữa mọi tác nhân, mà nó còn là một nguồn lực nhân văn vô tận để khai thác, ứng dụng vào thực tiễn phát triển bản thân nền kinh tế di sản, kinh tế du lịch dịch vụ làm giàu cho vùng và đất nước”.

Đại biểu tham gia thảo luận 

Nhiều đề tài khoa học được nghiên cứu sát với thực tiễn về những đặc trưng, tiềm năng và xu thế phát triển của khu vực Tây Nguyên được các tác giả khác nêu lên cùng thảo luận. Đó là “Nông nghiệp công nghệ cao-động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực Tây Nguyên” của TS. Trương Thị Hạnh – ThS. Nguyễn Thị Thư Dương; “Tác động bất đối xứng của chuyển đổi số đến thu nhập theo ngành nghề: bằng chứng thực nghiệm từ Tây Nguyên, Việt Nam” của ThS. Huỳnh Thị Ái Hậu; “Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Tây Nguyên trong bối cảnh mới: thực trạng và những vấn đề đặt ra” của PGS. TS. Lê Văn Đính…

Minh Đạo