Vai trò của CCN đối với phát triển kinh tế - xã hội tại các tỉnh, thành phố là rất quan trọng. Bên cạnh hoạt động sản xuất, tạo ra sản phẩm thì hoạt động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong CCN cũng tạo ra các chất thải nguy hại đến môi trường, sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân xung quanh.
Hiện nay, việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật CCN tại các địa phương, đặc biệt hạ tầng bảo vệ môi trường còn nhiều khó khăn; công tác thu gom, xử lý nước thải, chất thải rắn tại nhiều CCN chưa đúng quy định pháp luật môi trường.
Được biết, số lượng CCN hiện đã đi vào hoạt động lên tới 730, với tổng diện tích 22.336 ha, trong đó có 9.363 cơ sở đang hoạt động trong cụm. Tuy nhiên, số lượng CCN có biện pháp bảo vệ môi trường, công trình xử lý chất thải chỉ chiếm số lượng nhỏ: Đến hết năm 2020, cả nước mới chỉ có 141 CCN (chiếm 19,3%) có hệ thống xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động.

Hệ thống xử lý nước thải tại một CCN ở Thái Bình
Vì vậy, việc đề xuất xây dựng, thực hiện Chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng CCN (trong đó có hạ tầng bảo vệ môi trường) giai đoạn 2021 - 2025 từ nguồn ngân sách Trung ương phân bổ cho Bộ Công Thương là một trong những giải pháp quan trọng để khắc phục, xử lý các tồn tại nêu trên.
Theo đó, một số giải pháp về quản lý môi trường đối với CCN được đề xuất rõ trong Chương trình là: tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị định 68/2017/NĐ-CP, Nghị định 66/2020/NĐ-CP và quy định của pháp luật về quản lý, phát triển CCN. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các Sở, ngành, chính quyền địa phương các cấp trong việc quản lý, phát triển CCN, quản lý môi trường và công tác thanh tra, kiểm tra đối với các CCN cho phù hợp với tình hình thực tế, quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, chỉ đạo, các cơ quan ban ngành cần tập trung nguồn lực đầu tư hoàn thiện hạ tầng bảo vệ môi trường CCN. Tiếp nhận các dự án đầu tư vào CCN cần đảm bảo thống nhất quy hoạch sử dụng đất và phân khu chức năng theo báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt, đảm bảo tính pháp lý và khoa học trong việc phân khu sản xuất để kiểm soát các vấn đề môi trường phát sinh trong hoạt động. Không tiếp nhận thêm các dự án đầu tư vào CCN trong trường hợp chưa hoàn thành xây dựng, đưa vào vận hành thường xuyên các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật chung của CCN theo quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ môi trường tại các CCN, tiến tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật riêng và phù hợp với CCN, sát thực tế. Rà soát, ban hành danh mục ngành nghề có nguy cơ cao về ô nhiễm môi trường để cấm, hạn chế đầu tư vào các CCN; ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường đối với CCN làm cơ sở pháp lý để quản lý môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường CCN.
Đồng thời hỗ trợ, khuyến khích, động viên các chủ đầu tư đầu tư hệ thống bảo vệ môi trường tại các CCN bằng việc ban hành, tổ chức thực hiện các Chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng CCN từng giai đoạn từ ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; tăng cường phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường.
Tăng cường phổ biến, tập huấn áp dụng các văn bản quản lý môi trường cho các cơ quan quản lý CCN, nhà đầu tư hạ tầng và nhà đầu tư thứ cấp trong CCN; tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường tại các CCN. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các CCN ở các địa phương; xử lý nghiêm các vi phạm về công tác bảo vệ môi trường tại các CCN.