Thẩm định Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia

Thứ hai, 12/6/2023 | 00:27 GMT+7
Mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã chủ trì phiên họp của Hội đồng thẩm định Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo báo cáo tại phiên họp, mục tiêu của quy hoạch là phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia hiện đại, đồng bộ, đạt trình độ ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực châu Á vào năm 2030; có khả năng lồng ghép, tích hợp, kết nối, chia sẻ với mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia và mạng lưới trạm khí tượng thủy văn toàn cầu, đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu và nâng cao độ chính xác, tính kịp thời và độ tin cậy cho công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Trong giai đoạn đến năm 2025, mạng lưới trạm khí tượng thủy văn được phát triển mới, nâng cấp, hiện đại hóa và bổ sung yếu tố tăng dày mật độ trạm, đặc biệt là các khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai khí tượng thủy văn, vùng trống số liệu, vùng chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, quan trắc để khu vực ven biển, đảo, quần đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam. Tỉ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 40% đối với trạm khí tượng bề mặt; 50% đối với trạm quan trắc mực nước; 100% đối với các trạm đo mưa độc lập; 20% đối với các trạm đo lưu lượng nước; chuyển sang tự động hoàn toàn 20% số trạm khí tượng thủy văn thủ công hiện có.

Giai đoạn 2026 - 2030, tỉ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm khí tượng thủy văn đạt trên 95% đối với các trạm: khí tượng, đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng; chuyển sang tự động hoàn toàn 30% số trạm khí tượng thủy văn thủ công hiện có.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì phiên họp

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nêu rõ, thông qua quy hoạch, mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia phải bảo đảm sự thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương, từ đất liền ra biển đảo, có tính toàn cầu. Theo đó, quy hoạch cần xác định thay đổi những gì để đột phá bằng công nghệ, chuyển đổi số nhằm phát triển ngành khí tượng thủy văn cả về số lượng lẫn chất lượng, đồng thời tối ưu hóa tổ chức bộ máy, hệ thống khoa học nhất, phù hợp, hiệu quả nhất trong điều kiện của đất nước hiện nay.

Ngành khí tượng thuỷ văn tập trung đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo khí tượng thủy văn, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu. Tiếp cận, nghiên cứu một số loại hình quan trắc mới: trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh khí tượng và viễn thám, tên lửa khí tượng, thiết bị không người lái và các công nghệ, thiết bị quan trắc hiện đại khác.

Tại cuộc họp, các ý kiến đánh giá cao việc xây dựng quy hoạch theo yếu tố quan trắc hướng tới mô hình mạng lưới trạm hiện đại, đồng bộ, có mật độ quan trắc hợp lý và công nghệ quan trắc tiên tiến, mức độ tự động hóa cao.

Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, bám sát các căn cứ chính trị, pháp lý, quy định của Luật Quy hoạch, các quy hoạch chuyên ngành khác… cũng như các xu thế lớn về thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, kinh tế xanh… 

Để thực hiện được nhiệm vụ dự báo từ sớm, từ xa các hiện tượng thời tiết cực đoan và sự cố, rủi ro có thể, Phó Thủ tướng nhấn mạnh sự cần thiết của hoạt động hợp tác quốc tế trong thu thập, chia sẻ dữ liệu khí tượng thủy văn. Quy hoạch phải có tính "mở và động", phân định rõ giữa hệ thống quan trắc cơ bản, lâu dài với chuyên dụng. Mạng lưới, mật độ trạm khí tượng thủy văn cần được tính toán, xây dựng dựa trên cơ sở, tiêu chí khoa học; công nghệ, phương pháp thu thập số liệu quan trắc; nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra.

Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội để hiện đại hóa ngành khí tượng thủy văn, nhất là các trạm quan trắc trên biển; ứng dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin… trong xây dựng, vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu về khí tượng thủy văn.

Định hướng phát triển khí tượng thủy văn ứng dụng trong nông nghiệp, hàng không, môi trường… mở ra không gian cho các ngành khoa học khác khai thác, sử dụng số liệu quan trắc thứ cấp, phục vụ mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội.

Trong tổ chức thực hiện quy hoạch cần có cơ chế tài chính kết hợp nguồn lực Nhà nước và xã hội; xem xét đầu tư, khai thác, sử dụng, hiệu quả nguồn lực Nhà nước dành cho khí tượng thủy văn...; từng bước tự chủ trong sản xuất trang thiết bị, máy móc, làm chủ công nghệ quan trắc, bảo đảm tương thích, thống nhất trong cả hệ thống…

Gia Bách (T/H)