Phát biểu chỉ đạo hội nghị, ông Đặng Hải Dũng, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) cho biết, ngày 18/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Trên cơ sở đó, Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì xây dựng Nghị định mới thay thế Nghị định số 21/2011/NĐ-CP nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật, tạo hành lang pháp lý đồng bộ và khả thi.
Việc sửa đổi và cụ thể hóa các quy định trong luật lần này không chỉ nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước mà còn hướng tới mục tiêu lớn hơn, giảm phát thải, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Theo ông Đặng Hải Dũng, từ nay đến giai đoạn 2026 - 2030, hàng loạt quy định liên quan đến phát thải carbon và truy xuất nguồn gốc sản phẩm sẽ được các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc đồng loạt áp dụng. Điều này đặt ra thách thức nhưng cũng là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam chuyển mình, thích ứng với chuẩn mực xanh toàn cầu, đặc biệt trong các ngành sản xuất công nghiệp và phát điện.
Việc ban hành Nghị định lần này sẽ tạo nền tảng cho Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào thị trường carbon, phù hợp với lộ trình giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Đây cũng là sự chuẩn bị kịp thời để doanh nghiệp không bị động trước những rào cản thương mại mới, đồng thời biến thách thức thành động lực đổi mới sáng tạo.

Quang cảnh hội nghị
Ông Dũng nhấn mạnh: Chúng tôi mong nhận được nhiều góp ý chi tiết từ các tập đoàn, doanh nghiệp để Nghị định không chỉ là một công cụ pháp lý mà còn là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất xanh, góp phần đưa hàng hóa Việt Nam tiệm cận các chuẩn mực quốc tế.
Tại hội nghị, ông Cù Huy Quang, Trưởng Phòng Hiệu quả năng lượng và Chuyển đổi xanh (Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công) đã chia sẻ về dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Dự thảo Nghị định có nhiều điểm mới như: hoàn thiện cơ chế thống kê, cơ sở dữ liệu năng lượng quốc gia phục vụ công tác dự báo và hoạch định chính sách; quy định rõ trách nhiệm đối với cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, mô hình quản lý và kiểm toán năng lượng; tăng cường yêu cầu dán nhãn năng lượng, loại bỏ thiết bị hiệu suất thấp, thúc đẩy thị trường sản phẩm tiết kiệm năng lượng. Hình thành Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, hỗ trợ cho các dự án và tổ chức dịch vụ năng lượng. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật.
Bên cạnh đó, Sở Công Thương Hà Nội đã kiến nghị nhiều nội dung quan trọng nhằm tháo gỡ vướng mắc trong triển khai thực tế. Sở đề nghị các quy định nên hướng theo mô hình chính quyền hai cấp và tăng cường phân cấp quyền hạn để các địa phương dễ thực hiện, đồng thời phải bổ sung quy định về công cụ, phương tiện, kinh phí để tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Vấn đề thứ hai là tình trạng cơ sở dữ liệu năng lượng quốc gia đang găp nhiều khó khăn, khiến việc khai thác và chia sẻ dữ liệu phục vụ quy hoạch, định hướng và dự báo chưa thực sự hiệu quả. Sở Công Thương Hà Nội mong muốn Bộ Công Thương đầu tư xứng đáng vào hệ thống này, nhất là trong bối cảnh thành phố đang chịu áp lực lớn về chuyển đổi số. Ngoài ra, cần mở rộng đối tượng thống kê năng lượng bao gồm cả các đơn vị sử dụng lớn như bệnh viện, trường học cấp quốc gia và các tòa nhà văn phòng cao tầng, chứ không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp sản xuất.
Ông Trần Viết Nguyên, Phó trưởng ban Kinh doanh EVN kiến nghị, Nghị định cần phải cụ thể hóa chính sách tại Điều 32, đặc biệt là phải coi công ty dịch vụ năng lượng (ESCO) là ngành nghề kinh doanh có điều kiện chịu sự quản lý của Nhà nước, tương tự như đơn vị kiểm toán năng lượng để đảm bảo chất lượng dịch vụ.
Các nội dung cần được làm rõ bao gồm: chính sách ưu đãi tài chính và hỗ trợ thu xếp vốn (như tín dụng xanh, trái phiếu xanh) cho các dự án ESCO và quan trọng nhất là ban hành quy định kỹ thuật chi tiết cho việc đo lường, giám sát, xác nhận hiệu quả năng lượng do các công ty này cung cấp. Việc thiếu các hướng dẫn kỹ thuật này đang gây khó khăn cho cả ESCO và khách hàng, đồng thời tiềm ẩn rủi ro tranh chấp hợp đồng hiệu quả năng lượng. EVN cũng lưu ý cần giải quyết khoảng trống pháp lý liên quan đến bàn giao tài sản đối với các doanh nghiệp nhà nước tham gia thị trường này và cơ chế chi ngân sách nhà nước cho các cơ quan công sở khi sử dụng dịch vụ tiết kiệm năng lượng của ESCO.
Những ý kiến của các đơn vị, chuyên gia sẽ là cơ sở quan trọng để Bộ Công Thương tiếp thu, chỉnh lý xây dựng dự thảo Nghị định thực sự trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và thúc đẩy phát triển bền vững đất nước.