Nông nghiệp sạch

Xây dựng và phát triển chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp

Thứ tư, 19/11/2025 | 15:58 GMT+7
Tương lai của nông nghiệp Việt Nam phải gắn với mô hình xanh – bền vững – phát thải thấp. Điều này đòi hỏi việc hình thành các chuỗi giá trị khép kín, ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc và công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với thị trường quốc tế.

Ngày 19/11, tại Hà Nội, tạp chí Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức hội thảo “Liên kết vùng – thúc đẩy chuỗi giá trị xanh trong nông nghiệp Việt Nam”.

Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển chuỗi giá trị xanh nhằm thúc đẩy sản xuất an toàn, thân thiện môi trường, bảo vệ đất đai, nguồn nước và đa dạng sinh học; đồng thời tăng cường liên kết vùng để phát triển nông nghiệp tuần hoàn. Tương lai của nông nghiệp Việt Nam phải gắn với mô hình xanh – bền vững – phát thải thấp. Điều này đòi hỏi việc hình thành các chuỗi giá trị khép kín, ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc và công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với thị trường quốc tế.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, mỗi năm, Việt Nam chịu thiệt hại lớn do thiên tai, ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và đời sống người dân. Vì vậy, phát triển chuỗi giá trị xanh không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là giải pháp quan trọng giúp giảm rủi ro môi trường, tối ưu lợi ích kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Với sự phát triển của chuyển đổi số, việc truy xuất nguồn gốc và áp dụng công nghệ số vào ngành nông nghiệp sẽ giúp ngành quản lý, giám sát sản xuất một cách hiệu quả hơn; tạo ra sản phẩm chất lượng cao, có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Quang cảnh hội thảo

Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường Trần Công Thắng chia sẻ, xu hướng thị trường thế giới đang dịch chuyển mạnh sang tiêu dùng và sản xuất xanh. Đây trở thành yếu tố mang tính “bắt buộc” nếu Việt Nam muốn nâng giá trị nông sản và đạt mục tiêu xuất khẩu 80 – 100 tỷ USD trong thời gian tới.

Ông Trần Công Thắng cho rằng, nông nghiệp hiện đại không chỉ dừng lại ở kỹ thuật sản xuất mà mở rộng sang truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn carbon thấp, nông nghiệp tuần hoàn và hữu cơ. Đây là những yêu cầu ngày càng cao từ người tiêu dùng và các thị trường nhập khẩu. Việt Nam cũng đã triển khai nhiều chiến lược lớn như Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, Chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam với trọng tâm “ba tái”: tái sử dụng, tái chế, tái quay vòng.

PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch chia sẻ: Trong 10 năm qua, tỷ lệ tổn thất nông sản đã giảm nhưng nếu tính đầy đủ cả thất thoát và lãng phí thì con số vẫn còn rất lớn. Với lúa gạo, tỷ lệ tổn thất có thể tới 20%; riêng trái cây, nếu tính tổng thể thì có thời điểm lên tới gần 50%. Đây là thách thức chung của nhiều nước ASEAN. Bên cạnh đó, nông nghiệp Việt Nam sở hữu nguồn phụ phẩm khổng lồ, lên tới hơn 156 triệu tấn mỗi năm từ trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản, mở ra tiềm năng rất lớn cho tái sử dụng và gia tăng giá trị.

Từ thực trạng này, ngành nông nghiệp ưu tiên hai nhóm công nghệ trọng tâm: bảo quản và chế biến. Ông Phạm Anh Tuấn nêu các giải pháp trọng tâm gồm: quy hoạch vùng sản xuất theo lợi thế, liên kết chuỗi từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ, phát triển hợp tác xã kiểu mới, khuyến khích doanh nghiệp dẫn dắt chuỗi, chuyển mạnh sang tiêu chuẩn xanh và đẩy nhanh số hóa nông nghiệp. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống kiểm nghiệm, chứng nhận và hạ tầng logistics để nâng cao chất lượng nông sản cũng như năng lực cạnh tranh.

Tại hội thảo, các chuyên gia đã trình bày nhiều tham luận chuyên sâu, tập trung phân tích yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện cơ chế liên kết vùng. Nhiều ý kiến cho rằng mô hình liên kết vùng cần được thiết kế đồng bộ từ quy hoạch sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu đến chia sẻ dữ liệu và tổ chức tiêu thụ theo chuỗi.

Các chuyên gia nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghệ bảo quản hiện đại, chế biến sâu, số hóa quy trình kiểm soát chất lượng nhằm giảm thất thoát, tối ưu chi phí và nâng cao giá trị gia tăng của nông sản. Đồng thời, việc hoàn thiện chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo, từ ưu đãi đầu tư, hỗ trợ chuyển giao công nghệ đến mô hình hợp tác công - tư được đánh giá là giải pháp quan trọng để khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội trong phát triển nông nghiệp xanh.

Mô hình chuỗi giá trị xanh sẽ hỗ trợ ngành nông nghiệp phát triển theo hướng giảm phát thải; nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm thông qua chuẩn hóa quy trình, kiểm soát an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc; mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là những thị trường cao cấp ưu tiên sản phẩm bền vững. Chuỗi giá trị xanh còn giúp phát triển kinh tế nông thôn ổn định, tăng thu nhập cho nông dân, hình thành vùng nguyên liệu tập trung, đồng bộ, thúc đẩy chế biến sâu, tối ưu logistics và giảm thất thoát sau thu hoạch. Đây cũng là giải pháp quan trọng giúp Việt Nam tiến gần hơn mục tiêu phát thải ròng bằng 0.

Đức Dũng (t/h)