Thúc đẩy cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên tại Việt Nam

Thứ tư, 14/6/2023 | 17:45 GMT+7
Mới đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) phối hợp với Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức hội thảo kỹ thuật “Đánh giá và thúc đẩy cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên tại Việt Nam”.

Hội thảo là một phần của dự án Mạng lưới Dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng sinh học” (BES-Net) giai đoạn II, nhằm xây dựng đề án chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên và chuẩn bị đề án thí điểm cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon đối với hệ sinh thái biển và hệ sinh thái đất ngập nước. BES-Net là sáng kiến hợp tác giữa UNDP, Trung tâm Giám sát bảo tồn thế giới của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP-WCMC) và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), được hỗ trợ bởi Sáng kiến Khí hậu quốc tế (IKI) và SwedBio. Dự án nhằm thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững các dịch vụ hệ sinh thái để tăng cường khả năng phục hồi của trái đất và phúc lợi của con người.

Tại hội thảo, Trưởng ban Biến đổi khí hậu và Môi trường UNDP Việt Nam Đào Xuân Lai cho biết, chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES) được công nhận rộng rãi như một công cụ chính sách thành công để quản lý tài nguyên thiên nhiên ở hơn 60 quốc gia. Các chương trình này đã được áp dụng cho các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau trên phạm vi quốc tế bao gồm bảo tồn đa dạng sinh học, dịch vụ lưu vực sông, hấp thụ carbon và vẻ đẹp cảnh quan. Tổng số tiền chi trả hàng năm của các chương trình PES trên toàn thế giới là trên 36 tỷ USD.

Tại Việt Nam, chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được triển khai thành công trong hơn một thập kỷ qua, góp phần tăng nguồn lực tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng. Những bài học kinh nghiệm từ việc chi trả dịch vụ môi trường rừng là cơ sở để nhân rộng cơ chế tương tự cho các hệ sinh thái khác, trong đó có môi trường biển và đất ngập nước.

Mặc dù Việt Nam đã triển khai các sáng kiến giống PES như thu phí dịch vụ tham quan đối với các khu vực biển và vùng đất ngập nước được bảo vệ, mô hình đồng quản lý nguồn lợi thủy sản, phát triển các phương pháp nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường ở một số vùng ven biển với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các ngành liên quan, tuy nhiên hiện vẫn chưa có chi trả toàn diện cho dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước.

Thúc đẩy cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên tại Việt Nam

Đối với vấn đề tài chính cho đa dạng sinh học tại Việt Nam, UNDP đã triển khai một số sáng kiến như tài chính bền vững cho đa dạng sinh học, du lịch bền vững dựa vào thiên nhiên, đồng quản lý nguồn lợi thủy sản và tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy thực hiện cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên.

PGS. TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường nhấn mạnh tầm quan trọng của những đóng góp, ý kiến của chuyên gia đối với kết quả nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách, giúp hoàn thiện kết quả nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách về chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước.

Các báo cáo tổng kết, phân tích các kinh nghiệm và thực hành tốt về PES tại các nước như Trung Quốc, Đông Phi, khu vực châu Âu, Costa Rica và các mô hình thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, các chương trình sẽ hoạt động tốt nhất khi các dịch vụ được xác định rõ ràng. Trong đó, các hệ thống PES chủ yếu tập trung vào các dịch vụ hệ sinh thái/môi trường có giá trị cao đối với người hưởng lợi và chi phí cung cấp dịch vụ thấp. Các dịch vụ đầu nguồn, dịch vụ môi trường rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, hấp thụ carbon và vẻ đẹp cảnh quan là những mục tiêu chính của các chương trình PES trên toàn cầu.

Báo cáo cũng đưa ra một số khuyến nghị chính trong khuôn khổ dự án BES-Net giai đoạn II, bao gồm xây dựng tiêu chí và phương pháp đánh giá dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước quốc gia; hỗ trợ đánh giá và đánh giá dịch vụ hệ sinh thái ở cấp cơ sở; lập bản đồ hiện trạng dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước ở Việt Nam; xây dựng hướng dẫn cho cấp tỉnh và cấp cơ sở đề án cơ chế chi trả, thí điểm chi trả dịch vụ hệ sinh thái đối với hệ sinh thái biển và đất ngập nước, hoàn thiện chính sách, quy định về chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, trọng tâm là hệ sinh thái biển và đất ngập nước.

Phương An